Thái Nguyên: Xóa “vùng trắng” viễn thông, tạo sinh kế số
Thái Nguyên đang quyết liệt xóa “vùng lõm” thông tin, mở rộng hạ tầng viễn thông và lan tỏa kỹ năng số đến tận thôn bản, từ đó mở ra cơ hội sinh kế mới cho người dân.
Xóa trắng sóng, thu hẹp khoảng cách số, không để ai bị bỏ lại phía sau
Sau sáp nhập, Thái Nguyên có diện tích rộng hơn, địa hình phức tạp, tỷ lệ đồng bào dân tộc thiểu số (DTTS) cao. Một số xã phía Bắc của tỉnh - khu vực trước thuộc Bắc Kạn cũ - vẫn tồn tại nhiều “điểm trắng” viễn thông, đặc biệt tại các thôn, bản vùng sâu, vùng xa. Sóng điện thoại yếu, hạ tầng mạng thiếu đồng bộ, khiến việc điều hành của chính quyền cơ sở gặp khó khăn, người dân khó tiếp cận các dịch vụ công trực tuyến (DVCTT).
Từ thực tế đó, thực hiện Kế hoạch số 02/KH-UBND của UBND tỉnh Thái Nguyên về chuyển đổi số (CĐS) toàn diện giai đoạn 2025 - 2030, Thái Nguyên tập trung xóa bỏ những “vùng lõm” sóng viễn thông, thu hẹp khoảng cách số giữa miền núi và đồng bằng. Từ hạ tầng mạng đến con người, từng bước chuyển đổi được triển khai sâu rộng đến tận thôn bản, góp phần hiện thực hóa mục tiêu xây dựng chính quyền số - kinh tế số - xã hội số, bảo đảm mọi người dân đều được thụ hưởng thành quả của CĐS.
Tỉnh ủy và UBND tỉnh Thái Nguyên đã chỉ đạo Sở Khoa học và Công nghệ (KH&CN) phối hợp với các nhà mạng khảo sát 37 xã phía Bắc, ghi nhận 55 thôn, bản chưa có sóng hoặc tín hiệu chập chờn, trong đó một số nơi chưa có điện lưới quốc gia. Nguyên nhân chủ yếu là do địa hình phức tạp, dân cư phân tán, mỗi cụm dân cư chỉ vài chục hộ rải rác trên nhiều quả đồi.

Tỉnh đã giao các nhà mạng Viettel, VNPT và MobiFone phối hợp xóa “lõm sóng” với mục tiêu xử lý lần lượt của mỗi đơn vị là 20, 20 và 15 điểm trong năm 2025. Với các khu vực chưa có điện, tỉnh phối hợp Sở Công Thương triển khai phương án kéo điện lưới, đảm bảo sớm hoàn thiện hạ tầng viễn thông đồng bộ.
Tại trung tâm các xã, băng thông Internet cũng được nâng cấp, phục vụ người dân đến giải quyết thủ tục hành chính, tra cứu thông tin và sử dụng dịch vụ công.
Những thay đổi này dần xóa đi hình ảnh vùng cao “lõm sóng” trên bản đồ số. Người dân có thể gọi video cho con cháu đi làm xa, nhận thông báo từ ngân hàng, cơ quan bảo hiểm hay trường học ngay trên điện thoại. Các dịch vụ vốn được coi là “chuyện ở đâu đó dưới xuôi” bắt đầu xuất hiện trong nếp sinh hoạt thường ngày.
Trong quý IV/2025, Sở KH&CN Thái Nguyên xác định tiếp tục tập trung chỉ đạo, phối hợp cùng doanh nghiệp (DN) viễn thông triển khai hạ tầng tại 55 thôn bản chưa có sóng di động; tham mưu xây dựng Chỉ thị tăng cường công tác quản lý tần số và thiết bị vô tuyến điện trên địa bàn, bảo đảm hoạt động viễn thông an toàn, ổn định.
Việc tập trung giải quyết dứt điểm tình trạng “vùng trắng sóng” thể hiện quyết tâm mạnh mẽ của tỉnh trong việc bảo đảm quyền tiếp cận thông tin cho mọi người dân, không để ai bị bỏ lại phía sau trong tiến trình CĐS.
Song song với việc đầu tư hạ tầng, Thái Nguyên đặc biệt chú trọng yếu tố con người. Mô hình tổ công nghệ số cộng đồng (CNSCĐ) được triển khai đến từng xã, từng bản, hỗ trợ người dân tiếp cận các DVCTT, từ đăng ký khai sinh, khai tử đến thủ tục đất đai, bảo hiểm y tế; đồng thời hướng dẫn các tiện ích số trong đời sống như thanh toán không tiền mặt, đặt lịch khám bệnh trực tuyến hay học online.
Tại xã Bạch Thông, các thành viên tổ CNSCĐ đến tận nhà giúp người dân tạo tài khoản DVC và nộp hồ sơ trực tuyến.
Tại xã Đồng Phúc, chính quyền lập nhóm Zalo hỗ trợ và tổ chức các buổi hướng dẫn trực quan, giúp người dân làm quen với các nền tảng số, cài đặt ứng dụng VNeID, Bảo hiểm xã hội, ngân hàng số… Cán bộ còn hướng dẫn bằng cả tiếng Tày, Dao để bà con dễ hiểu. Nhờ đó, tỷ lệ người dân sử dụng DVCTT tăng rõ rệt.
Bên cạnh hạ tầng và thiết bị, Thái Nguyên cũng đã triển khai các lớp tập huấn “bình dân học vụ số” và “bình dân học AI”, giúp người dân tiếp cận công nghệ và làm quen với công nghệ AI ở mức cơ bản - tra cứu kiến thức, dịch ngôn ngữ, soạn thảo văn bản, thiết kế tờ rơi… Gần 400.000 người dân toàn tỉnh đã tham gia trải nghiệm AI, xóa dần khoảng cách giữa cái mới và sự e dè, biến công nghệ thành “trợ lý” hữu ích trong đời sống và sản xuất.
Một ví dụ điển hình là xã Phong Quang, từ một địa bàn miền núi còn nhiều khó khăn, xã đang từng bước chuyển mình nhờ đổi mới cách thức truyền thông cơ sở và đẩy mạnh ứng dụng công nghệ vào quản lý, sản xuất. Việc xóa “vùng lõm” thông tin trở thành chìa khóa để người dân tiếp cận tri thức, chủ động nắm bắt cơ hội phát triển kinh tế.
Một trong những điểm nhấn trong quá trình giảm nghèo tại Phong Quang là việc xã đẩy mạnh triển khai hợp phần “giảm nghèo thông tin” thuộc Chương trình MTQG Giảm nghèo bền vững. Toàn xã đã kiện toàn 18 tổ CNSCĐ, trở thành lực lượng nòng cốt hướng dẫn người dân sử dụng điện thoại thông minh, tra cứu giá nông sản, tiếp cận chính sách mới, tìm kiếm việc làm và thực hiện các DVCTT. Nhờ đó, mô hình truyền thông một chiều trước đây dần chuyển sang truyền thông số hai chiều, tăng tính tương tác và hiệu quả.
Cán bộ thôn, đoàn thể được tập huấn kỹ năng số để làm “cầu nối thông tin”, hỗ trợ người dân biết cách tự tìm kiếm, chọn lọc và ứng dụng thông tin vào sản xuất. Bên cạnh đó, các nhóm Zalo, Facebook cộng đồng cùng trang thông tin điện tử của xã thường xuyên cập nhật tin tức về vốn vay, tuyển dụng lao động, giá thị trường và các mô hình sản xuất hiệu quả.
Nhờ chủ động nắm bắt thông tin, nhiều hộ dân đã mạnh dạn chuyển đổi cây trồng, tiếp cận nguồn vốn vay ưu đãi, tham gia bảo hiểm y tế và các chính sách an sinh. Đây cũng là nền tảng quan trọng giúp xã hoàn thành việc xóa 69 nhà tạm, dột nát trong thời gian qua.

Phong Quang cũng đang phối hợp với DN viễn thông để mở rộng phủ sóng 4G, 5G, đồng thời đầu tư mạng cáp quang đến các khu vực còn “trắng” hạ tầng. Xã cũng dự kiến nâng cấp hệ thống loa truyền thanh thông minh tại 18/18 thôn, bổ sung thiết bị phục vụ người dân tại nhà họp thôn và sản xuất các clip song ngữ (tiếng phổ thông - tiếng Tày/Dao) nhằm bảo đảm mọi người dân đều có thể tiếp cận tri thức số.
Bên cạnh việc trao quyền tiếp cận thông tin, Phong Quang còn tập trung tạo sinh kế bền vững cho người dân. Các dự án phát triển theo chuỗi giá trị được triển khai trên nhiều lĩnh vực như chăn nuôi trâu, bò, dê sinh sản; trồng cây dược liệu; phát triển nông sản đặc trưng vùng cao; chuyển đổi cơ cấu cây trồng phù hợp thổ nhưỡng.
Người dân được hỗ trợ vốn, kỹ thuật và hướng dẫn quy trình sản xuất an toàn. Nhờ cập nhật kịp thời thông tin thị trường qua các tổ CNSCĐ và nhóm truyền thông xã, nhiều hộ đã tự tin mở rộng mô hình, ký kết tiêu thụ sản phẩm với DN, hợp tác xã, tạo đầu ra ổn định.
Để củng cố nội lực cộng đồng, xã đang xem xét thành lập Câu lạc bộ thoát nghèo bền vững, nơi các hộ nghèo và cận nghèo có thể chia sẻ kinh nghiệm sản xuất với nhau, được tham vấn kỹ thuật từ cán bộ khuyến nông và DN. Đây được kỳ vọng là không gian học tập số cộng đồng, hỗ trợ người dân nâng cao kỹ năng quản lý tài chính, quảng bá sản phẩm và tiếp cận thị trường.
Theo kế hoạch, đến cuối năm 2025, Phong Quang phấn đấu giảm 52 hộ nghèo và 45 hộ cận nghèo, hướng tới giảm nghèo đa chiều, bảo đảm người dân được tiếp cận đầy đủ thông tin, y tế, giáo dục và an sinh xã hội.
Với sự vào cuộc đồng bộ của cả hệ thống chính trị cùng tinh thần tự lực vươn lên của người dân, Phong Quang đang từng bước thay đổi diện mạo - trở thành vùng quê miền núi chuyển mình nhờ hạ tầng số, tri thức số và sinh kế số.
Công nghệ gắn với sinh kế
CĐS ở vùng cao chỉ thực sự có ý nghĩa khi người dân nhìn thấy lợi ích cụ thể trong đời sống và sản xuất. Nếu trước đây, nông sản của bà con chỉ tiêu thụ quanh xã, quanh huyện, thì nay nhờ thành thạo mạng xã hội và các nền tảng số, nhiều hộ đã mở rộng thị trường ra các tỉnh, thành phố.
Tiêu biểu như anh Đặng Hành Dũng, chủ trang trại cá tầm và cá hồi tại thôn Phiêng Phàng (xã Thượng Minh). Nhờ học cách sử dụng mạng xã hội và kết nối với các nhóm khách hàng ở thành phố, anh hợp tác với DN du lịch để tổ chức trải nghiệm tham quan trang trại. Các hình ảnh, video về mô hình nuôi cá ở vùng núi cao cũng được lan tỏa rộng rãi, từ đó giúp lượng đơn hàng tăng mạnh.
Tại các vùng trồng chè, người dân đã biết ứng dụng công nghệ số để ghi chép nhật ký điện tử, ghi lại toàn bộ quy trình chăm sóc, bón phân, phun thuốc, kết nối trực tiếp với thương lái, tham gia livestream bán hàng theo mùa vụ. Nhiều hợp tác xã vùng cao đưa mã QR vào truy xuất nguồn gốc, đưa sản phẩm lên sàn thương mại điện tử và triển khai thanh toán không dùng tiền mặt. Những người nông dân vốn quen với đồng ruộng giờ có thể mở điện thoại kiểm tra đơn hàng, trò chuyện với khách hàng ở xa chỉ bằng vài thao tác.
Với sự đồng hành của DN viễn thông, sự vào cuộc quyết liệt của chính quyền, và tinh thần sáng tạo của người dân, Thái Nguyên đang hiện thực hóa mục tiêu xây dựng “chính quyền số từ thôn bản”. Mỗi người dân biết sử dụng DVCTT, mỗi hộ vùng cao biết bán nông sản qua mạng, mỗi tổ CNSCĐ hoạt động hiệu quả… đều là những bước đi nhỏ nhưng chắc chắn trên hành trình thu hẹp khoảng cách số giữa miền núi và đô thị, giữa đồng bào DTTS và các vùng phát triển./.
