Nhiều đóng góp giá trị cho TP. Hồ Chí Minh tại Hội thảo khoa học do Tạp chí KH&CN Việt Nam và ĐHQG TP. HCM tổ chức
Tại Hội thảo do Tạp chí Khoa học và Công nghệ Việt Nam và Đại học Quốc gia TP. HCM tổ chức, các nhà khoa học đã chia sẻ nhiều nghiên cứu đóng góp cho TP. Hồ Chí Minh trở thành thành phố thông minh thích ứng, xanh và bền vững.
Ngày 13/11/2025, tại TP. Hồ Chí Minh, Tạp chí Khoa học và Công nghệ (KH&CN) Việt Nam trực thuộc Học viện Chiến lược KH&CN, Bộ KH&CN phối hợp với Trường Đại học Khoa học Tự nhiên (ĐH KHTN), Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh (ĐHQG-HCM) tổ chức Hội thảo khoa học tạo nguồn bài cho Tạp chí KH&CN Việt Nam bản C (Vietnam Journal of Science, Technology and Engineering).

Phát biểu khai mạc hội thảo GS. TS. Nguyễn Trung Nhân, Phó Hiệu trưởng Trường ĐH KHTN - ĐHQG-HCM cho biết hội thảo được tổ chức là một dịp để các giảng viên, nghiên cứu sinh, sinh viên của Trường được tiếp cận với các ấn phẩm của Tạp chí KH&CN Việt Nam - kênh công bố các kết quả nghiên cứu KH&CN của Bộ KH&CN.

GS. TS. Nguyễn Trung Nhân cũng nhấn mạnh một trong những yếu tố quan trọng trong việc xếp hạng đại học là việc giao lưu, đăng tải các bài báo khoa học. Do đó, Tạp chí KH&CN Việt Nam là kênh quan trọng để các giảng viên, nghiên cứu sinh, sinh viên đăng tải bài báo nhằm nâng chỉ số khoa học, góp phần nâng cao thứ hạng nhà trường.
Tạp chí KH&CN Việt Nam có các ấn bản A, B, C, D, Chuyên san các công trình nghiên cứu, phát triển và ứng dụng CNTT - Truyền thông, Tạp chí Chính sách và quản lý KH&CN và ấn phẩm điện tử. Riêng ấn bản C của Tạp chí rất gần với các lĩnh vực nghiên cứu của các giảng viên, nhà khoa học, sinh viên của Trường ĐH KHTN.
GS. TS. Nguyễn Trung Nhân nhấn mạnh, các giảng viên, nhà nghiên cứu của Trường cần gắn kết hơn nữa với Tạp chí để công bố các nghiên cứu khoa học, góp phần thực hiện Nghị quyết 57.
Bà Phạm Thị Minh Nguyệt, Phó Tổng Biên tập Tạp chí KH&CN Việt Nam cho biết, Hội thảo không chỉ giới thiệu với cộng đồng khoa học các ấn phẩm của Tạp chí mà còn là diễn đàn học thuật để các nhà khoa học trao đổi trong các lĩnh vực KH&CN, trong đó có lĩnh vực môi trường, trí tuệ nhân tạo (AI), khoáng sản rắn… Đồng thời, đây cũng là cơ hội để các nhà khoa học kết nối, góp phần xây dựng cộng đồng khoa học năng động, hội nhập.

Tại hội thảo, các giảng viên, nhà khoa học đã trình bày các chuyên đề: Phát triển đô thị bền vững hướng tới trung hòa carbon: Trường hợp TP. HCM; Tích hợp tin học thủy văn thông minh vào hệ thống cảnh báo sớm để quản lý hiệu quả ngập lụt đô thị TP. HCM; Ứng dụng công nghệ thực vật nổi giảm thiểu ô nhiễm đô thị; Khám phá đá quý nguồn gốc pegmatite tại Việt Nam: cơ sở khoa học và khả năng thương mại trang sức; Khoáng sản rắn đáy biển sâu của Việt Nam.

Xây dựng TP. Hồ Chí Minh trở thành thành phố thích ứng
Mở đầu Hội thảo, TS. Trần Thị Kim, Trường ĐH KHTN trình bày chuyên đề “Phát triển đô thị bền vững hướng tới trung hòa carbon: Trường hợp TP. HCM”.

Theo TS. Trần Thị Kim, TP. HCM cũng như nhiều thành phố trong khu vực và Việt Nam hướng đến phát thải ròng bằng “0” khi triển khai thành phố thông minh (TPTM) thích ứng. Đây là xu hướng mới nhất từ năm 2020 đến nay trong hành trình phát triển từ TPTM (2000), thành phố bền vững (2010), thành phố chống chịu (resilient city) (từ năm 2015) đến TPTM thích ứng (climate smart city).
TPTM hiện nay được tích hợp công nghệ số, viễn thông và AI để tối ưu hóa dịch vụ đô thị, mang lại nhiều lợi ích kinh tế - xã hội, từ giao thông thông minh đến quản lý năng lượng, công nghệ đang định hình lại không gian sống của người dân.
Bên cạnh nhiều ưu điểm đáp ứng của cuộc sống đô thị hiện đại, TS. Trần Thị Kim cho biết sự phát triển TPTM cũng tiềm ẩn những vấn đề lớn như: ô nhiễm, tiêu thụ năng lượng cao; chi phí đầu tư lớn; dễ tổn thương trước khủng hoảng, phát thải cao, thiên tai và biến đổi khí hậu. Trong đó là các vấn đề về triển khai công nghệ cho TPTM như rác thải điện tử, ứng dụng AI, dữ liệu lớn, ICT… mạnh mẽ đang làm tiêu tốn năng lượng cao là những vấn đề rất “nóng”.
Qua những đánh giá và nghiên cứu, TS. Trần Thị Kim cho biết nhóm nghiên cứu đã đề xuất phát triển TP. HCM thông minh thích ứng theo 41 chỉ số trong 5 lĩnh vực: Năng lượng và công trình xanh; quy hoạch đô thị, tỷ lệ phủ xanh và đa dạng sinh học; giao thông đô thị và chất lượng không khí; quản lý nước thải; quản lý chất thải.
Theo TS. Trần Thị Kim, TP. HCM (cũ) đã có những nền tảng tốt và một số thành tựu ban đầu trong xây dựng mô hình TPTM vì khí hậu. Tuy nhiên, để thực sự đạt được mục tiêu phát thải ròng bằng 0 vào 2050, TP. HCM cần chuyển từ “khởi động” sang “hành động quyết liệt”, với chiến lược tích hợp - đồng bộ về chính sách, công nghệ và nguồn lực xã hội.
Cụ thể, đầu tiên, TP. HCM cần đẩy mạnh phát triển năng lượng tái tạo và giảm tiêu thụ năng lượng hóa thạch, đầu tư phát triển các công trình xanh.
Thứ hai, TP. HCM cần ưu tiên mở rộng diện tích công viên và cây xanh, từng bước xây dựng kế hoạch hành động khí hậu có định lượng rõ ràng, gắn liền với quy hoạch phát triển không gian đô thị.
Thứ ba, triển khai lộ trình chuyển đổi xe buýt điện và phương tiện giao thông sạch, đồng thời nâng cao khả năng tiếp cận giao thông công cộng; Mở rộng hệ thống giám sát, điều khiển giao thông thông minh, giúp giảm ùn tắc và cải thiện chất lượng môi trường
Thứ tư, TP. HCM áp dụng công nghệ số, đặc biệt là SCADA và GIS, toàn diện và tự động hóa 100% trong quản lý và vận hành mạng lưới cấp nước, chống ngập. Đến năm 2050, định hướng là phát triển hạ tầng cấp - thoát nước bền vững, tiết kiệm năng lượng, chủ động kiểm soát ngập và xâm nhập mặn, gắn liền với kịch bản biến đổi khí hậu và nước biển dâng.
Thứ năm, TP. HCM phấn đấu giảm tỷ lệ chôn lấp chất thải rắn sinh hoạt xuống dưới 20% và thay thế bằng các công nghệ đốt phát điện, tái chế và tái sử dụng. Nhân rộng phân loại rác tại nguồn, văn phòng xanh hay chợ không rác. Song song đó, thành phố cần chú trọng cải thiện hiệu quả bãi chôn lấp, giảm phát thải khí nhà kính từ xử lý chất thải và tăng cường ứng dụng công nghệ số.



Xây dựng mô hình quản lý hiệu quả ngập lụt đô thị
Ngập lụt đô thị cũng là một vấn đề lớn đối với các siêu đô thị như TP. HCM. Dự báo lũ lụt nhanh là một thách thức lớn đối với các công cụ truyền thống như mô hình số. Sự phát triển nhanh chóng của AI và học máy (ML) mở ra cơ hội mới cho mô phỏng và dự báo.
Theo đó, trình bày nghiên cứu “Tích hợp tin học thủy văn thông minh vào hệ thống cảnh báo sớm để quản lý hiệu quả ngập lụt đô thị TP Hồ Chí Minh”, TS. Trần Ánh Dương, Viện khoa học tính toán và trí tuệ nhân tạo, Trường ĐH Văn Lang cho biết nhóm nghiên cứu tập trung: (i) phát triển mô hình thoát nước 1D-2D kết hợp để mô phỏng lũ lụt đô thị tại TP. HCM bằng phần mềm MIKE+; (ii) thử nghiệm một loạt các thuật toán học máy để đánh giá khả năng mô hình hóa thay thế của chúng nhằm mô phỏng độ sâu ngập lụt bề mặt tại các thành phố ven biển; (iii) so sánh hiệu suất của các mô hình ML thay thế với các mô hình thoát nước 1D-2D có độ chính xác cao và tốn kém về mặt tính toán; (iv) tạo ra một hệ thống cảnh báo lũ lụt đô thị sớm (EUFW) hiệu quả để cảnh báo ngập lụt, có thể được đóng gói thành ứng dụng, nền tảng web để trực quan hóa dữ liệu lũ lụt và bản đồ lũ lụt trực tuyến.

Mục tiêu của nghiên cứu là khám phá và áp dụng các kỹ thuật tiên tiến để tạo ra một EUFW hiệu quả cho cảnh báo ngập lụt, có thể được đóng gói thành ứng dụng và cung cấp một nền tảng web toàn diện để trực quan hóa dữ liệu lũ lụt và bản đồ lũ lụt trực tuyến, tạo điều kiện dễ dàng truy cập thông tin cho người dùng và hỗ trợ các cơ quan chính phủ đưa ra quyết định sáng suốt.
Hệ thống cung cấp thông tin về phân bổ nguồn lực, hỗ trợ chuẩn bị và giảm thiểu thiệt hại trước khi thiên tai xảy ra, cứu sống người dân, giảm thiểu thiệt hại kinh tế, ứng phó khẩn cấp tốt hơn, nâng cao khả năng phục hồi và thích ứng của cộng đồng.
Hiện tại, hệ thống đã được triển khai và đang hoạt động tại TP. Thủ Đức, mang lại những kết quả tích cực và nhận được sự đánh giá cao từ cộng đồng. TP. Thủ Đức là khu vực có hệ thống sông ngòi, hồ, kênh rạch rộng lớn, là nơi có địa hình thấp trũng. Hơn nữa, do nằm cạnh sông Sài Gòn nên thường xuyên chịu ảnh hưởng của triều cường.
Với việc sử dụng các mô hình AI, EUFW có thể theo dõi và cảnh báo về các sự kiện thiên tai tiềm ẩn, dù là do thiên nhiên hay do con người gây ra, để các cộng đồng dễ bị tổn thương và các bên liên quan có thể thực hiện các hành động phòng ngừa và chủ động kịp thời, do đó giảm thiểu thiệt hại về tài sản, bảo vệ tính mạng và giảm thiểu thiệt hại về tài sản do thiên tai gây ra.
Ứng dụng công nghệ thực vật nổi giảm thiểu ô nhiễm đô thị
Một vấn đề nữa về môi trường đô thị của TP. HCM cũng được bàn thảo tại Hội thảo là việc tạo ra một hệ sinh thái có thể góp phần làm giảm chất ô nhiễm trong kênh rạch TP. HCM.
Theo đó, PGS.TS. Bùi Xuân Thành, Trường ĐH Bách Khoa, ĐHQG-HCM và nhóm nghiên cứu đã thực hiện phát triển hệ thống xử lý nước thải nổi (hay còn gọi là hệ thống đất ngập nước xử lý nổi) (Floating Treatment Wetlands) là một giải pháp xử lý nước thải thân thiện với môi trường, sử dụng thực vật thủy sinh để làm sạch nguồn nước ô nhiễm ở TP. HCM.

Hai thành phần chính của hệ thống là khung bè nổi và cây thủy sinh. Khung bè nổi có cấu tạo rất đơn giản, được làm từ ống nhựa PVC và ống tre đan lại với nhau bằng dây thép. Phía trên bè có một số giá thể và vật liệu đệm giúp cây đứng vững và cũng tăng cường khả năng xử lý ô nhiễm như gạch, xơ dừa, hoặc than hoạt tính.
Trong khi đó, đối với cây thủy sinh, loài có bộ rễ tốt, thích nghi với thời tiết tại TP. HCM, dễ tìm kiếm và phải có khả năng sống sót trong điều kiện khắc nghiệt như môi trường có nồng độ ô nhiễm cao được ưu tiên lựa chọn.
Rễ cây thủy sinh khi phát triển sẽ trở thành môi trường sống cho các vi sinh vật có khả năng hấp thụ các chất ô nhiễm trong nước như nitơ, phốt pho, kim loại nặng và thậm chí cả vi khuẩn gây bệnh như E. coli thông qua các quá trình lý, hóa và sinh học.
Phát triển hệ thống xử lý nước thải nổi được đề xuất có thể là một lựa chọn để xử lý nước, cải tạo cảnh quan, tăng cường đa dạng sinh học cho kênh rạch tại TP. HCM.


Cũng tại hội thảo, PGS.TS. Phạm Trung Hiếu, Trường ĐH KHTN, ĐHQG-HCM chia sẻ nghiên cứu "Khám phá đá quý nguồn gốc pegmatite tại Việt Nam: cơ sở khoa học và khả năng thương mại trang sức”, trong khi TS. Ngô Trần Thiện Quý, Trường ĐH KHTN, ĐHQG-HCM trình bày “Khoáng sản rắn đáy biển sâu của Việt Nam: Cơ hội và thách thức”./.
