Nâng cao thu nhập cho nông dân: Trụ cột vững chắc xây dựng nông thôn mới
Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới là chiến lược phát triển toàn diện, nhằm nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho cư dân nông thôn, trong đó tiêu chí thu nhập giữ vai trò then chốt, phản ánh trực tiếp hiệu quả và tính bền vững của chương trình.
Trong các tiêu chí của Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới (NTM), nâng cao thu nhập cho người dân được xem là chỉ số quan trọng nhất, là thước đo trực tiếp cho sự thành công và tính bền vững của chương trình. Bài viết tập trung phân tích thực trạng, thách thức và đề xuất các giải pháp mang tính đột phá nhằm tăng thu nhập cho người dân nông thôn, tạo nền tảng vững chắc cho quá trình hiện đại hóa nông nghiệp, nông dân, nông thôn.

Thực trạng thu nhập của người dân nông thôn và yêu cầu nông thôn mới
Trong giai đoạn vừa qua, nhờ sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế và phát triển các khu công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp tại khu vực nông thôn, thu nhập bình quân đầu người ở nông thôn đã có sự tăng trưởng đáng kể. Theo số liệu từ Tổng cục Thống kê, tốc độ tăng trưởng thu nhập bình quân của khu vực nông thôn đã cải thiện, tỷ lệ hộ nghèo giảm mạnh. Tuy nhiên, sự tăng trưởng này vẫn chưa đồng đều và thiếu tính bền vững.
Chênh lệch thu nhập giữa khu vực nông thôn và thành thị cũng như giữa các vùng nông thôn có điều kiện khác nhau (vùng đồng bằng so với vùng núi, vùng sâu vùng xa) còn khá lớn. Thu nhập ở nhiều nơi phụ thuộc chủ yếu vào nông nghiệp truyền thống, dễ bị tổn thương trước biến đổi khí hậu, dịch bệnh và biến động thị trường. Phần lớn lao động nông thôn vẫn làm việc trong các ngành nghề có năng suất và giá trị gia tăng thấp.
Trong chương trình NTM, tiêu chí về thu nhập đòi hỏi phải đạt mức bình quân đầu người cao hơn so với mặt bằng chung, đồng thời tỷ lệ hộ nghèo phải giảm xuống dưới mức quy định (thường là dưới 1,5% đối với NTM kiểu mẫu), nhấn mạnh vào sự giàu có, bền vững chứ không chỉ đơn thuần là thoát nghèo.
Những thách thức trong việc nâng cao thu nhập bền vững
Để đạt được mục tiêu thu nhập bền vững, khu vực nông thôn còn phải đối mặt với rất nhiều rào cản.
Về đất đai và sản xuất: Hầu hết các vùng nông thôn đều có truyền thống sản xuất manh mún, quy mô nhỏ lẻ, thiếu tập trung khiến việc áp dụng cơ giới hóa, công nghệ cao và thu hút đầu tư lớn gặp khó khăn. Chi phí sản xuất trên đơn vị sản phẩm vẫn cao. Người dân nông thôn lại thiếu vốn để đầu tư cho đổi mới công nghệ, thiếu kiến thức về thị trường và quản trị hiện đại.
Ngoài ra còn có những thách thức về thị trường và chuỗi giá trị do khả năng cạnh tranh còn yếu. Chất lượng nông sản chưa đồng đều, chưa đáp ứng được các tiêu chuẩn khắt khe của thị trường xuất khẩu hoặc các kênh phân phối hiện đại. Tình trạng "được mùa mất giá" vẫn xảy ra do thiếu liên kết bao tiêu sản phẩm vững chắc và hệ thống thông tin thị trường không hiệu quả.
Về nguồn nhân lực, các vùng nông thôn còn thiếu rất nhiều lao động chất lượng cao. Tỷ lệ lao động nông thôn qua đào tạo nghề còn thấp. Thanh niên có trình độ có xu hướng di cư ra thành thị khiến nông thôn thiếu hụt nguồn nhân lực trẻ có khả năng tiếp thu công nghệ. Hơn nữa, khả năng chuyển đổi từ thuần nông sang các ngành nghề phi nông nghiệp như dịch vụ, du lịch, công nghiệp... còn chậm.
Một số giải pháp trọng tâm góp phần nâng cao thu nhập
Để nâng cao thu nhập một cách bền vững, cần phải thực hiện các giải pháp đột phá, tập trung vào ba trụ cột chính: đổi mới sản xuất nông nghiệp, phát triển kinh tế phi nông nghiệp và hỗ trợ nguồn lực và thị trường.
Nhằm đổi mới sản xuất nông nghiệp theo hướng giá trị cao cần tích tụ và tập trung đất đai, khuyến khích các hình thức tích tụ ruộng đất thông qua hợp tác xã (HTX) kiểu mới, hoặc cho thuê lại để hình thành các vùng chuyên canh, sản xuất quy mô lớn, tạo điều kiện cho ứng dụng khoa học công nghệ, cơ giới hóa đồng bộ.
Phát triển nông nghiệp công nghệ cao là rất cần thiết. Để thực hiện được điều này cần tập trung vào các sản phẩm chủ lực, có lợi thế so sánh và giá trị kinh tế cao như cây ăn quả, thủy sản đặc sản, dược liệu... Nhà nước cần có chính sách ưu đãi vốn, đất đai và hỗ trợ chuyển giao công nghệ cho các dự án nông nghiệp công nghệ cao.
Ngoài ra, cần xây dựng thương hiệu và đẩy mạnh Chương trình mỗi xã một sản phẩm (OCOP), nâng cao chất lượng sản phẩm truyền thống gắn liền với văn hóa địa phương. Việc chuẩn hóa quy trình, truy xuất nguồn gốc và xây dựng thương hiệu giúp sản phẩm nông nghiệp tăng giá trị gia tăng.
Nhằm đa dạng hóa nguồn thu từ kinh tế phi nông nghiệp cần thu hút đầu tư vào các cụm công nghiệp, làng nghề chế biến nông sản, thực phẩm, tiểu thủ công nghiệp tại địa bàn nông thôn. Việc này giúp chuyển dịch lao động dư thừa từ nông nghiệp sang công nghiệp, tăng thu nhập và giảm áp lực việc làm tại đô thị.
Hơn nữa cần phát triển du lịch trải nghiệm nông nghiệp, du lịch sinh thái cộng đồng gắn với cảnh quan, văn hóa, ẩm thực đặc trưng. Đây là nguồn thu mới, bền vững, tạo công ăn việc làm tại chỗ cho người dân. Khuyến khích các dịch vụ logistics, bảo quản sau thu hoạch, thương mại điện tử phục vụ nông nghiệp, tạo ra các ngành nghề mới, hiện đại.
Cuối cùng là tăng cường hỗ trợ nguồn lực và liên kết thị trường bằng việc tổ chức các chương trình đào tạo nghề linh hoạt, phù hợp với nhu cầu thị trường và đặc thù địa phương như kỹ thuật canh tác nông nghiệp công nghệ cao, vận hành máy móc, du lịch cộng đồng... Hỗ trợ tư vấn khởi nghiệp cho thanh niên nông thôn; xây dựng các mô hình liên kết sản xuất theo chuỗi giá trị giữa nông dân/HTX và doanh nghiệp (chế biến, phân phối, xuất khẩu). Đặc biệt cần chú trọng đến liên kết bao tiêu sản phẩm để đảm bảo đầu ra ổn định và giảm rủi ro thị trường cho người sản xuất; đơn giản hóa thủ tục vay vốn, mở rộng các gói tín dụng ưu đãi cho hộ nghèo, hộ sản xuất kinh doanh giỏi và các dự án đầu tư nông nghiệp công nghệ cao; hỗ trợ người dân tiếp cận các hình thức bảo hiểm nông nghiệp để đối phó với rủi ro thiên tai.
Nâng cao vai trò của hợp tác xã và chính quyền địa phương
Hợp tác xã kiểu mới phải trở thành đơn vị kinh tế trung gian chuyên nghiệp, đóng vai trò quan trọng trong tổ chức sản xuất tập trung, ký kết hợp đồng góp vốn, hợp đồng bao tiêu lớn với doanh nghiệp, cũng như cung ứng vật tư đầu vào chất lượng, dịch vụ cơ giới hóa và đại diện nông dân đàm phán giá cả và giải quyết tranh chấp.
Chính quyền địa phương cần đóng vai trò kiến tạo, cụ thể hóa bằng việc xây dựng quy hoạch vùng sản xuất, định hướng cây trồng vật nuôi chủ lực theo lợi thế và nhu cầu thị trường; thực hiện cơ chế "đặt hàng" nghiên cứu, chuyển giao công nghệ cho các đơn vị khoa học công nghệ, gắn kết chặt chẽ với các dự án sản xuất tại địa phương; đảm bảo môi trường đầu tư thông thoáng, thu hút doanh nghiệp về nông thôn.
Việc tham gia vào các Hợp tác xã (HTX) kiểu mới không chỉ giúp người nông dân thay đổi phương thức canh tác mà còn tác động trực tiếp đến túi tiền của họ. Thay vì mỗi hộ gia đình tự mua lẻ tẻ phân bón, hạt giống với giá cao, HTX đứng ra đại diện nhập hàng số lượng lớn trực tiếp từ nhà máy. Người dân mua được vật tư nông nghiệp với giá sỉ (thường rẻ hơn 10-15%) và đảm bảo chất lượng, tránh hàng giả.
Ví dụ, một HTX dịch vụ nông nghiệp tại Đồng Tháp đứng ra thuê chung máy bay không người lái (drone) để xịt thuốc cho toàn bộ cánh đồng mẫu lớn, giúp giảm 30% chi phí nhân công và lượng thuốc so với phun thủ công.
Hợp tác xã còn giúp nâng cao giá trị sản phẩm qua chế biến và thương hiệu. Sản phẩm bán thô thường có giá thấp và bấp bênh. HTX giúp người dân thực hiện các khâu sơ chế, đóng gói và xây dựng chứng nhận (VietGAP, GlobalGAP, OCOP). Sản phẩm có bao bì, nhãn mác và chứng chỉ an toàn có thể bán vào các siêu thị hoặc xuất khẩu với giá cao gấp 1.5 - 2 lần so với bán tại chợ truyền thống.
Ví dụ, HTX chè Hảo Đạt (Thái Nguyên) không chỉ bán chè búp thô mà còn đầu tư dây chuyền đóng gói chân không, sản xuất trà túi lọc và làm du lịch trải nghiệm, giúp thu nhập của thành viên đạt mức 10-15 triệu đồng/tháng.
HTX đóng vai trò là pháp nhân đứng ra ký kết hợp đồng cung ứng dài hạn với các tập đoàn, chuỗi cửa hàng thực phẩm sạch. Người nông dân không còn lo cảnh "được mùa mất giá" hay bị thương lái ép giá. Giá bán được thỏa thuận trước ngay từ đầu vụ, tạo sự ổn định về tài chính.
Ví dụ, các HTX rau xứ lạnh tại Đơn Dương (Lâm Đồng) ký hợp đồng cung ứng cho hệ thống WinMart. Nhờ đầu ra ổn định, thu nhập của nông dân được duy trì ở mức cao và bền vững, không phụ thuộc vào biến động giá chợ đen.
Nâng cao thu nhập cho người dân nông thôn là một quá trình dài hơi, đòi hỏi sự phối hợp đồng bộ và quyết tâm cao của cả hệ thống chính trị, doanh nghiệp và người dân. Việc chuyển đổi từ sản xuất manh mún sang nông nghiệp công nghệ cao, đẩy mạnh kinh tế phi nông nghiệp và củng cố liên kết chuỗi giá trị là những hướng đi then chốt. Chỉ khi người dân nông thôn thực sự giàu có thì nông thôn mới mới có thể phát triển bền vững và toàn diện, đáp ứng được mục tiêu đưa nông thôn Việt Nam trở thành nơi đáng sống, văn minh, hiện đại./.
