Mô hình nuôi cá song trân châu bằng lồng HDPE trên biển đạt chứng nhận VietGAP
Dự án nuôi cá song trân châu lồng HDPE trên biển đạt lợi nhuận tăng gần 70% nhờ minh bạch thông tin thị trường và chuẩn hóa quy trình kỹ thuật theo VietGAP.
Nghề nuôi cá biển tại Hải Phòng và Quảng Ninh những năm qua được đánh giá còn nhiều tiềm năng phát triển, song vẫn gặp không ít khó khăn do rủi ro môi trường, chi phí sản xuất cao và đầu ra thiếu ổn định.
Trong bối cảnh đó, việc áp dụng các mô hình nuôi trồng thủy sản theo hướng công nghệ cao, chuẩn hóa quy trình sản xuất và tăng cường liên kết tiêu thụ đang được ngành nông nghiệp các địa phương đặc biệt quan tâm.

Hội nghị sơ kết dự án “Xây dựng mô hình nuôi cá song trân châu bằng lồng HDPE trên biển đạt chứng nhận VietGAP gắn với tiêu thụ sản phẩm” được tổ chức nhằm đánh giá hiệu quả triển khai mô hình tại Hải Phòng và Quảng Ninh.
Theo bà Lương Thị Kiểm, Phó Giám đốc Sở Nông nghiệp và Môi trường Hải Phòng, nghề nuôi cá song trên địa bàn thành phố hiện vẫn đối mặt với nhiều thách thức, trong đó nổi bật là hạ tầng nuôi biển chưa đồng bộ, môi trường nước tại một số khu vực bị ô nhiễm. Bên cạnh đó, một bộ phận người nuôi vẫn sản xuất theo kinh nghiệm, sử dụng con giống không rõ nguồn gốc, chưa áp dụng đầy đủ các quy trình nuôi an toàn sinh học, dẫn đến chi phí cao nhưng hiệu quả chưa tương xứng.
Theo ThS. Nguyễn Thị Thanh, Trưởng phòng Chuyển giao kỹ thuật thủy sản, Trung tâm Khuyến nông Hải Phòng - đơn vị trực tiếp thực hiện dự án, quá trình triển khai chú trọng hướng dẫn người dân thực hiện đồng bộ các bước kỹ thuật, từ lựa chọn con giống, quản lý môi trường nuôi đến ghi chép nhật ký nuôi trồng. Việc sử dụng lồng nhựa HDPE và thức ăn công nghiệp giúp hạn chế ô nhiễm môi trường, giảm rủi ro do thời tiết, đồng thời nâng cao tỷ lệ sống của cá nuôi.
Trước thực tế đó, năm 2025, Trung tâm Khuyến nông Quốc gia phối hợp với Trung tâm Khuyến nông Hải Phòng triển khai mô hình nuôi cá song trân châu trong lồng nhựa HDPE tại Cát Hải (Hải Phòng) và Vân Đồn (Quảng Ninh). Dự án tập trung xây dựng quy trình nuôi đạt chứng nhận VietGAP, đồng thời tổ chức liên kết tiêu thụ sản phẩm nhằm ổn định đầu ra cho người nuôi.
Chia sẻ về dự án, ThS. Nguyễn Thị Thanh nhấn mạnh, bên cạnh đổi mới vật liệu nuôi và con giống, yếu tố quyết định hiệu quả của mô hình chính là sự chuyển dịch trong dòng chảy thông tin.
Kết quả sơ kết cho thấy, các chỉ tiêu kỹ thuật của mô hình đều đạt và vượt kế hoạch đề ra. Tỷ lệ sống của cá song trân châu đạt 75,8%; năng suất đạt 17 kg/m³, cao hơn 13,3% so với kế hoạch. Sau một năm nuôi, cá đạt kích cỡ thương phẩm trên 1,1 kg/con, đáp ứng yêu cầu tiêu thụ.
Về hiệu quả kinh tế, chi phí sản xuất của mô hình giảm 10.900 đồng/kg so với phương thức nuôi đại trà. Trên quy mô 630 m³ lồng nuôi, tổng lợi nhuận đạt hơn 635 triệu đồng, tỷ suất lợi nhuận trên vốn đầu tư đạt 34,66%. Hiệu quả kinh tế của mô hình cao hơn 69,8% so với mô hình đối chứng.
Đáng chú ý, toàn bộ sản lượng cá thương phẩm của mô hình được liên kết tiêu thụ với doanh nghiệp, góp phần minh bạch giá bán và hạn chế tình trạng bị ép giá trung gian. Việc áp dụng quy trình VietGAP cũng giúp giảm sử dụng thuốc và hóa chất, kiểm soát tốt hệ số chuyển đổi thức ăn, đáp ứng yêu cầu về an toàn thực phẩm và bảo vệ môi trường./.
“Thành phố đang quyết liệt tái cơ cấu ngành thủy sản theo hướng giảm khai thác, tăng nuôi trồng công nghệ cao. Kết quả của Dự án là minh chứng sống động cho thấy, khi người dân được trang bị đầy đủ hạ tầng kỹ thuật và thông tin thị trường, nghề nuôi biển sẽ phát triển bền vững. Sở đề nghị tiếp tục nhân rộng mô hình, xem đây là giải pháp trọng tâm để nâng cao thu nhập cho ngư dân ven biển.”
Lương Thị Kiểm - Phó Giám đốc Sở Nông nghiệp và Môi trường Hải Phòng
