Chuyển đổi số tại Bắc Ninh: Thực trạng và vấn đề đặt ra
Sau khi sáp nhập và tổ chức mô hình chính quyền 2 cấp, Bắc Ninh đã có những chuyển biến tích cực trong chuyển đổi số, đặc biệt là chuyển đổi số trong thực hiện hành chính công. Bên cạnh đó, nhiều khó khăn, bất cập cũng đang tồn tại song hành, đòi hỏi Bắc Ninh cần giải quyết một cách kịp thời, đồng bộ.
Những tín hiệu tích cực
Đến nay, mức độ sẵn sàng trong triển khai mô hình chính quyền địa phương 2 cấp của các xã/phường trên địa bàn tỉnh đã đáp ứng 99% các tiêu chí, có 92 xã/phường sẵn sàng - XANH; 7 xã/phường cảnh báo - VÀNG.

Bắc Ninh đã triển khai đồng bộ nhiều hình thức hỗ trợ đa kênh, đa nền tảng, đạt được những kết quả tích cực. Đã hướng dẫn trực tiếp và trực tuyến cho trên 125.000 lượt người dân, doanh nghiệp thông qua các kênh: Zalo, Fanpage Facebook, tổng đài 0204.3531.111 và tư vấn trực tiếp tại quầy. Số người sử dụng Zalo quan tâm trong kỳ đạt 125.000 lượt, số lượt xem các bài viết hướng dẫn, tuyên truyền trên Zalo đạt 10.370 lượt. Trên Fanpage Facebook, số lượt tiếp cận bài viết tăng 8.043 lượt; tiếp nhận và trả lời 09 câu hỏi của người dân liên quan đến thủ tục hành chính điện tử. Có tổng cộng 121 phản ánh, kiến nghị (PAKN) của cá nhân, tổ chức đã được tiếp nhận và xử lý kịp thời thông qua hệ thống, góp phần cải thiện chất lượng phục vụ và nâng cao mức độ hài lòng.
Sở Khoa học và Công nghệ Bắc Ninh đã tổ chức thành công các lớp tập huấn chuyển đổi số và triển khai thực hiện thủ tục hành chính điện tử cho 99/99 xã/phường trên toàn tỉnh, bảo đảm 100% chính quyền cấp xã được phổ biến, hướng dẫn quy trình tiếp nhận, giải quyết và số hóa hồ sơ thủ tục hành chính (TTHC) theo đúng yêu cầu tại Nghị định số 118/2025/NĐ-CP ngày 09/6/2025 về thực hiện TTHC theo cơ chế một cửa, một cửa liên thông tại Bộ phận Một cửa và Cổng dịch vụ công quốc gia.
Tỉnh cũng đã triển khai hệ thống điều hành tác nghiệp và quản lý văn bản điện tử không mật và văn bản điện tử mật. Hoàn thành cài đặt, cấu hình điều chỉnh hệ thống điều hành tác nghiệp và quản lý văn bản điện tử theo mô hình chính quyền địa phương 2 cấp, đưa vào sử dụng phục vụ dùng chung trong các cơ quan nhà nước tỉnh từ ngày 01/7/2025. Thực hiện tạo lập tổng số 35.205 tài khoản người dùng trên Hệ thống đăng nhập tập trung (SSO) cho khối Chính quyền và khối Đảng sau sáp nhập tỉnh để sử dụng các hệ thống dùng chung của tỉnh. Hỗ trợ, hướng dẫn người dùng trong quá trình khai thác, sử dụng hệ thống; tiếp nhận và xử lý các lỗi phát sinh trong quá trình khai thác, sử dụng hệ thống. Đến thời điểm hiện tại, đã tạo lập được 35.065 tài khoản thư điện tử công vụ. Các cơ quan, đơn vị khối chính quyền đã cấu hình, triển khai hệ thống quản lý văn bản và điều hành gồm: 23 sở, ban, ngành; 99 xã và 34 đơn vị sự nghiệp của Sở Y tế Bắc Ninh. Tỷ lệ văn bản điện tử trao đổi giữa các cơ quan hành chính nhà nước qua Hệ thống quản lý văn bản và điều hành đạt 100%.
Công tác tập huấn, hướng dẫn sử dụng phần mềm được tỉnh quan tâm thường xuyên. Bên cạnh việc tổ chức các lớp tập huấn tập trung, trực tiếp, Sở Khoa học và Công nghệ Bắc Ninh đã tổ chức thêm các lớp tập huấn bằng hình thức trực tuyến (qua phòng họp Zoom) cho từng đối tượng người dùng; tạo lập các nhóm hỗ trợ qua Zalo, Teamview, Ultraview, điện thoại, hỗ trợ trực tiếp tại cơ sở; thành lập Tổ ứng cứu công nghệ và nghiệp vụ hỗ trợ thúc đẩy chuyển đổi số liên thông, đồng bộ, nhanh và hiệu quả đáp ứng yêu cầu sắp xếp tổ chức lại bộ máy của hệ thống chính trị trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh; đồng thời chỉ đạo thực hiện chia các thành viên Tổ ứng cứu ra thành các nhóm, trực tiếp xuống kiểm tra, hỗ trợ các xã/phường còn vướng mắc.
Tỉnh cũng tập trung triển khai các giải pháp bảo mật mã hóa chữ ký số chuyên dùng công vụ đáp ứng dịch vụ công trực tuyến. Đến nay, khối chính quyền đã phát hành và quản lý 67.668 chứng thư số (CTS) chuyên dùng công vụ (6.106 CTS tổ chức, 51.562 CTS cá nhân). Các lớp tập huấn về chữ ký số (thu hồi, thay đổi thông tin, cập nhật thông tin CTS, quản lý CTS…) được tổ chức liên tục qua nhiều hình thức trực tiếp, trực tuyến (qua zoom); hỗ trợ kỹ thuật 24/7, xử lý kịp thời yêu cầu của các cơ quan, đơn vị.
Công tác bảo đảm an ninh an toàn thông tin được chú trọng, nhất là an ninh an toàn hệ thống thông tin phục vụ giải quyết TTHC. Hiện hệ thống thông tin tỉnh đang được triển khai tại 02 trung tâm giám sát an ninh mạng đặt tại Sở Khoa học và Công nghệ Bắc Giang (cũ) và Sở Khoa học và Công nghệ Bắc Ninh (cũ). Cả 02 hệ thống chạy song song, được giám sát bởi trung tâm giám sát an ninh mạng (Viettel là đơn vị cung cấp dịch vụ) và triển khai hệ thống theo dõi mã độc tập trung. Trong tháng 7/2025, Trung tâm giám sát an ninh mạng đã phát hiện 533 cảnh báo mức độ cao liên quan đến hệ thống thông tin của tỉnh. Qua phân tích, Trung tâm giám sát an ninh mạng đã đề nghị Công an tỉnh phối hợp với Sở Khoa học và Công nghệ, các đơn vị có liên quan xác minh, xử lý 06 hoạt động bất thường trên hệ thống, phát hiện, ngăn chặn và tiến hành ứng cứu, khắc phục sự cố đối với 01 hoạt động tấn công vào máy chủ hệ thống.
Vấn đề đặt ra cần sớm được khắc phục
Việc thay đổi mô hình chính quyền địa phương 2 cấp diễn ra trong thời gian ngắn, nhiều văn bản thể chế, chính sách mới của Trung ương được ban hành có phạm vi quy mô rộng, nội dung phức tạp, các cấp, các ngành chưa tiếp cận sâu và hiểu chắc nên triển khai còn nhiều lúng túng. Một số văn bản hướng dẫn chưa ban hành kịp thời. Các văn bản chính sách của cấp tỉnh cũng phải rà soát, tích hợp, sửa đổi bổ sung hàng loạt để phù hợp với tỉnh mới.
Một số xã/phường trên địa bàn tỉnh chưa phân công rõ trách nhiệm cán bộ đầu mối phụ trách công nghệ thông tin (CNTT), chưa bố trí cán bộ chuyên trách đủ năng lực quản trị và vận hành hệ thống dịch vụ công điện tử ở cấp xã dẫn tới việc phối hợp với các tổ hỗ trợ của tỉnh còn chậm. Một số nơi bố trí công chức cấp xã làm nhiệm vụ CNTT chưa đúng với nhân sự dự kiến đã được tập huấn trước khi vận hành chính quyền địa phương 2 cấp nên xảy ra lúng túng; các trường hợp bố trí mới dù được tập huấn, hướng dẫn kịp thời nhưng vẫn cần thời gian để tiếp cận công việc mới. Một số xã/phường bố trí công chức, viên chức làm nhiệm vụ CNTT chưa phù hợp với năng lực, trình độ chuyên môn được đào tạo; thiếu kinh nghiệm, kỹ năng và năng lực ứng dụng CNTT, đặc biệt trong việc xử lý hồ sơ điện tử liên thông các lĩnh vực phức tạp như đất đai, hộ tịch, đăng ký kinh doanh, tư pháp...
Hệ thống đường truyền tại một số xã/phường chưa đáp ứng yêu cầu; khó khăn về hạ tầng mạng LAN, một số trụ sở cơ quan sau sắp xếp chưa được đầu tư hay nâng cấp mạng LAN; việc kết nối còn một số bất cập do hầu hết các xã/phường phải bố trí nhiều nơi làm việc và khối lượng công việc, người dùng tăng lên; ở một số xã/phường đường truyền chưa ổn định. Hạ tầng máy chủ, băng thông đường truyền của Hệ thống Cổng dịch vụ quốc gia chưa đáp ứng tốc độ, nhu cầu truy cập, sử dụng nộp hồ sơ trực tuyến, đặc biệt trong giờ cao điểm. Một số hệ thống thông tin, cơ sở dữ liệu (CSDL) chuyên ngành chưa thực sự liên thông hiệu quả, dữ liệu còn phân mảnh, thiếu cập nhật thời gian thực; đặc biệt là khi thay đổi Hệ thống thông tin giải quyết TTHC mới, một số hệ thống CSDL chuyên ngành chưa tích hợp liên thông đồng bộ với hệ thống thông tin giải quyết TTHC.
Hệ thống quản lý văn bản còn một số bất cập, chưa thân thiện với người dùng đang tiếp tục được nâng cấp, hoàn thiện. Một số phần mềm dùng chung do các bộ, ngành triển khai (đặc biệt là phần mềm hộ tịch điện tử, hệ thống đăng ký kinh doanh) vẫn chưa ổn định, thường xuyên xảy ra lỗi kỹ thuật như: Không cập nhật trạng thái hồ sơ đúng thực tế, không đồng bộ dữ liệu, yêu cầu nhập lại thông tin trùng lặp nhiều lần... ảnh hưởng đến tiến độ xử lý hồ sơ, làm giảm độ tin cậy của hệ thống trong mắt người dân, doanh nghiệp, gây áp lực lớn lên đội ngũ cán bộ tiếp nhận và xử lý tại địa phương. Phần mềm hộ tịch điện tử còn nhiều lỗi kỹ thuật. Việc tích hợp, kết nối dữ liệu với Cổng dịch vụ công quốc gia và một số hệ thống chuyên ngành còn gặp khó khăn do hạ tầng máy chủ và thiết bị lưu trữ của Cổng dịch vụ công quốc gia chưa đáp ứng yêu cầu vận hành liên tục, ổn định; trong các khung giờ cao điểm (thanh toán trực tuyến, tra cứu liên thông, xác thực dữ liệu dân cư…), hệ thống dịch vụ công quốc gia thường xảy ra hiện tượng nghẽn, phản hồi chậm hoặc ngắt kết nối đột ngột, ảnh hưởng đến hiệu quả xử lý hồ sơ của địa phương, đồng thời làm giảm chỉ số đánh giá chất lượng dịch vụ công trực tuyến và trải nghiệm người dùng.
Những khó khăn, bất cập nêu trên cần được tỉnh chủ động hoặc phối hợp với các bộ, ngành khắc phục sớm nhằm đẩy mạnh chuyển đổi số toàn diện, đặc biệt chuyển đổi số phục vụ các TTHC, dịch vụ công đối với chính quyền 2 cấp./.
