Truyền thông

Chênh lệch giới tính khi sinh và bài toán an sinh trong giảm nghèo bền vững

GL 21/12/2025 14:35

Tình trạng mất cân bằng giới tính khi sinh tại Việt Nam tiếp tục là thách thức lớn đối với phát triển bền vững, khi tỷ số giới tính khi sinh duy trì ở mức cao trong gần một thập kỷ qua, bất chấp nhiều chính sách can thiệp đã được triển khai. Việc Quốc hội vừa thông qua Luật Dân số được kỳ vọng tạo bước ngoặt quan trọng, tạo hành lang pháp lý đủ mạnh nhằm từng bước đưa tỷ số giới tính khi sinh về mức cân bằng tự nhiên.

image-2-.jpg
Cán bộ Trạm y tế Tân Xuân (xã Xuân Nha, tỉnh Sơn La) phát tờ rơi, tư vấn trực tiếp cho người dân về các quy định pháp luật và giải pháp giảm thiểu mất cân bằng giới tính khi sinh.

Theo Bộ Y tế, giai đoạn 2021-2024, tỷ số giới tính khi sinh của Việt Nam ở mức khoảng 112 bé trai/100 bé gái, cao hơn đáng kể so với mức sinh học tự nhiên (104-106).

Đáng chú ý, nhiều tỉnh phía Bắc và Bắc Trung Bộ tiếp tục ghi nhận tỷ lệ chênh lệch cao, có địa phương gần 120 bé trai/100 bé gái, trong khi các tỉnh phía Nam duy trì ở mức thấp hơn, từ 105 - 108. Nếu không được cải thiện, dự báo đến năm 2034 Việt Nam sẽ dư thừa khoảng 1,5 triệu nam giới trong độ tuổi kết hôn, con số này có thể tăng lên 1,8 triệu vào năm 2059, kéo theo nhiều hệ lụy xã hội lâu dài.

GS.TS. Nguyễn Đình Cử, nguyên Viện trưởng Viện Dân số, cảnh báo mất cân bằng giới tính khi sinh là mối đe dọa âm thầm nhưng dai dẳng đối với cấu trúc dân số và sự ổn định xã hội.

Những quan niệm truyền thống như trọng nam, tư tưởng nối dõi tông đường, vai trò giới trong gia đình… vẫn ăn sâu vào đời sống xã hội, đặc biệt tại các vùng nông thôn, miền núi, nơi điều kiện kinh tế - xã hội và khả năng tiếp cận thông tin còn hạn chế. Hệ quả không chỉ là thừa nam, thiếu nữ mà còn làm gia tăng bất bình đẳng giới, tảo hôn, buôn bán phụ nữ và nguy cơ nghèo đói kéo dài qua nhiều thế hệ.

Kết quả khảo sát của Quỹ Dân số Liên hợp quốc (UNFPA) năm 2023 cho thấy, hơn 60% nam giới mong muốn có ít nhất một con trai, 38% phụ nữ chịu áp lực sinh con trai từ gia đình chồng và 27% phụ nữ mang thai từng tìm cách hỏi giới tính thai nhi, dù biết rõ hành vi này bị pháp luật nghiêm cấm.

Theo đại diện Cục Dân số (Bộ Y tế), tâm lý “đủ nếp, đủ tẻ” trong bối cảnh nhiều gia đình chỉ sinh một đến hai con đã làm gia tăng xu hướng lựa chọn giới tính thai nhi, đặc biệt khi con đầu là gái.

Dù có sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị, từ năm 2016 đến nay, Việt Nam vẫn chưa năm nào đưa được tỷ số giới tính khi sinh trở lại ngưỡng an toàn. Thực trạng này buộc các nhà hoạch định chính sách xác định mất cân bằng giới tính khi sinh là một trong những vấn đề dân số nghiêm trọng, cần được điều chỉnh bằng các biện pháp pháp lý và xã hội ở mức cao nhất.

Khác với Pháp lệnh Dân số trước đây chủ yếu dừng ở quy định cấm, Luật Dân số mới đã bổ sung các chế tài cụ thể và nghiêm khắc hơn. Theo đó, người hành nghề y có hành vi công bố, tiết lộ giới tính thai nhi sẽ bị đình chỉ hành nghề, trừ trường hợp phục vụ chẩn đoán và điều trị bệnh di truyền theo quy định.

Cùng với đó là tăng cường thanh tra, giám sát các cơ sở siêu âm, phòng khám tư nhân, từng bước áp dụng hệ thống giám sát điện tử đối với thông tin thai nhi.

Các chuyên gia cho rằng, để giải quyết tận gốc tình trạng chênh lệch giới tính khi sinh, bên cạnh chế tài pháp luật, cần đặc biệt chú trọng truyền thông thay đổi hành vi, hướng tới những nhóm còn chịu ảnh hưởng nặng nề của định kiến giới.

Truyền thông cần đi sâu vào cộng đồng, gia đình, thôn bản; gắn với nâng cao quyền tiếp cận giáo dục, y tế, an sinh xã hội và bảo đảm thực thi quyền thừa kế bình đẳng của con gái theo pháp luật; đồng thời rà soát, điều chỉnh hương ước, quy ước ở cơ sở theo hướng xóa bỏ định kiến giới.

Chỉ khi những rào cản về nhận thức, thông tin và cơ hội được tháo gỡ, tỷ số giới tính khi sinh mới có thể được đưa về mức cân bằng tự nhiên, tạo nền tảng cho phát triển bao trùm và bền vững trong dài hạn./.

Nổi bật
    Mới nhất
    Chênh lệch giới tính khi sinh và bài toán an sinh trong giảm nghèo bền vững