Truyền thông

Bài học giảm nghèo bền vững từ phát triển nghề rừng ở Cúc Phương

CM 18/12/2025 14:36

Thực tiễn tại Vườn quốc gia Cúc Phương cho thấy, nếu biết khai thác hợp lý giá trị đa dụng của rừng, nghề rừng không chỉ góp phần bảo vệ hệ sinh thái mà còn trở thành đòn bẩy quan trọng giúp giảm nghèo bền vững, đặc biệt đối với đồng bào dân tộc thiểu số.

Trong bối cảnh biến đổi khí hậu, suy giảm tài nguyên thiên nhiên và yêu cầu phát triển bền vững ngày càng trở nên cấp thiết, việc tìm ra hướng đi hài hòa giữa bảo tồn rừng và nâng cao sinh kế cho người dân vùng đệm đang là bài toán lớn đặt ra đối với nhiều địa phương.

Lấy bảo tồn làm nền tảng cho phát triển

Cúc Phương - Vườn quốc gia đầu tiên của Việt Nam từ lâu được coi là “lá phổi xanh” với hệ sinh thái rừng nhiệt đới đa dạng bậc nhất cả nước. Tuy nhiên, điều làm nên dấu ấn khác biệt của Cúc Phương không chỉ nằm ở giá trị đa dạng sinh học, mà còn ở triết lý phát triển bền vững, trong đó bảo tồn rừng được đặt làm nền tảng cho phát triển kinh tế cộng đồng.

Thay vì tách rời bảo tồn với sinh kế, Cúc Phương xây dựng mô hình cộng sinh giữa rừng - con người - du khách. Người dân vùng đệm không còn đứng ngoài công tác bảo vệ rừng, mà trở thành chủ thể tham gia và thụ hưởng lợi ích từ rừng. Chính sự thay đổi này đã tạo ra bước ngoặt trong tư duy phát triển, bảo vệ rừng không chỉ là trách nhiệm, mà còn là con đường thoát nghèo bền vững.

Du lịch sinh thái - sinh kế xanh cho cộng đồng vùng đệm

Một trong những trụ cột quan trọng của nghề rừng tại Cúc Phương là du lịch sinh thái gắn với cộng đồng. Vườn nằm trên địa bàn 7 xã thuộc ba tỉnh Ninh Bình, Phú Thọ và Thanh Hóa, nơi sinh sống chủ yếu của đồng bào Mường. Trước đây, đời sống người dân còn nhiều khó khăn, sinh kế phụ thuộc vào nông nghiệp truyền thống và khai thác rừng tự nhiên.

Sự phát triển của du lịch sinh thái đã mở ra hướng đi mới. Hàng trăm hộ dân đã chuyển đổi mô hình sinh kế, tham gia cung cấp các dịch vụ du lịch như homestay nhà sàn Mường, ẩm thực truyền thống, biểu diễn văn hóa, hướng dẫn du lịch sinh thái. Mỗi năm, hàng trăm lượt khách đến tham quan, trải nghiệm tại các thôn bản, mang lại nguồn thu ổn định cho người dân.

Đáng chú ý, việc phát triển homestay đã góp phần gìn giữ kiến trúc nhà sàn truyền thống. Thay vì phá bỏ nhà sàn để xây nhà mới, người dân đầu tư tu sửa, biến không gian sống thành “tài sản du lịch”, vừa tạo thu nhập, vừa bảo tồn di sản văn hóa.

Các món ăn truyền thống như cơm lam, thịt lợn mán, canh đắng, rượu cần… được chuẩn hóa và giới thiệu rộng rãi, trở thành sản phẩm du lịch đặc trưng của vùng rừng Cúc Phương.

Khai thác lâm sản ngoài gỗ - tăng thu nhập, giảm áp lực lên rừng

Bên cạnh du lịch sinh thái, nghề rừng tại Cúc Phương còn được mở rộng thông qua các mô hình kinh tế dưới tán rừng. Các hoạt động như nuôi ong lấy mật rừng, trồng và khai thác cây dược liệu (trà hoa vàng, khôi, hoàng đằng…) đang từng bước được nghiên cứu, phát triển theo hướng bền vững.

Những mô hình này tạo ra nguồn thu nhập phi gỗ có giá trị cao, giúp người dân giảm phụ thuộc vào khai thác gỗ, hạn chế tình trạng xâm hại rừng. Đồng thời, việc duy trì thảm thực vật dưới tán rừng còn góp phần bảo vệ hệ sinh thái, tăng khả năng phòng hộ và thích ứng với biến đổi khí hậu.

Song song với đó, các sản phẩm thủ công mỹ nghệ, đặc biệt là dệt thổ cẩm của người Mường, được phục hồi và phát triển như một phần của chuỗi giá trị du lịch sinh thái. Nghề truyền thống không chỉ được “đánh thức”, mà còn trở thành sinh kế gắn với rừng, góp phần giữ gìn bản sắc văn hóa và nâng cao thu nhập cho phụ nữ, người cao tuổi trong cộng đồng.

Nghề rừng gắn với bảo tồn văn hóa bản địa

Một điểm nổi bật trong mô hình nghề rừng tại Cúc Phương là xã hội hóa công tác quản lý, bảo vệ rừng.

Vườn quốc gia đã tăng cường giao khoán rừng cho cộng đồng và hộ gia đình vùng đệm, gắn trách nhiệm bảo vệ rừng với lợi ích kinh tế trực tiếp thông qua chính sách chi trả dịch vụ môi trường rừng và thu nhập từ du lịch sinh thái.

455-202512171745371.jpg
Hoạt động trải nghiệm tại Vườn quốc gia Cúc Phương.

Người dân trở thành những “người gác rừng bản địa”, tham gia tuần tra, phát hiện và ngăn chặn vi phạm. Cùng với đó, Vườn quốc gia Cúc Phương tiên phong ứng dụng công nghệ số như GPS, GIS và phần mềm SMART để nâng cao hiệu quả giám sát rừng. Khi công nghệ hiện đại được kết hợp với tri thức bản địa, công tác bảo vệ rừng đạt hiệu quả cao hơn, bền vững hơn.

Đặc biệt, nhiều người dân vùng đệm còn tham gia vào công tác cứu hộ động vật hoang dã, hỗ trợ các trung tâm bảo tồn linh trưởng, rùa, tê tê… Nhờ hiểu rõ địa hình và tập tính động vật, họ trở thành mắt xích quan trọng trong mạng lưới bảo tồn, góp phần bảo vệ các loài nguy cấp, quý hiếm.

Không chỉ giúp giảm nghèo, nghề rừng tại Cúc Phương còn góp phần bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa Mường. Các hoạt động du lịch cộng đồng tạo không gian để văn hóa phi vật thể như cồng chiêng, múa truyền thống, ẩm thực dân gian được thực hành thường xuyên, trở thành sản phẩm du lịch đặc sắc.

Nguồn thu từ du lịch và nghề rừng đã khuyến khích thế hệ trẻ tiếp nối, giữ gìn bản sắc văn hóa, thay vì rời quê hương tìm việc làm nơi khác. Qua đó, bảo tồn rừng gắn liền với bảo tồn văn hóa, tạo nên nền tảng phát triển bền vững cả về kinh tế, xã hội và môi trường.

Bài học cho giảm nghèo bền vững từ nghề rừng

Thực tiễn tại Vườn quốc gia Cúc Phương cho thấy, nghề rừng không chỉ là bảo vệ tài nguyên thiên nhiên, mà còn là sinh kế bền vững nếu được tổ chức đúng hướng. Khi người dân được đặt vào vị trí trung tâm, được chia sẻ lợi ích và tham gia quản lý, rừng trở thành nguồn lực lâu dài cho phát triển.

Mô hình Cúc Phương là minh chứng rõ nét cho cách tiếp cận giảm nghèo bền vững dựa trên bảo tồn, phù hợp với định hướng phát triển xanh và kinh tế tuần hoàn.

Đây cũng là kinh nghiệm quý để các địa phương có rừng, nhất là vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi, nghiên cứu, vận dụng trong quá trình xây dựng sinh kế bền vững, gắn bảo vệ rừng với phát triển kinh tế - xã hội./.

Nổi bật
    Mới nhất
    Bài học giảm nghèo bền vững từ phát triển nghề rừng ở Cúc Phương