Bắc Ninh: Hướng tới mục tiêu trở thành trung tâm công nghệ cao và kinh tế số
Theo kế hoạch phát triển kinh tế số và xã hội số tỉnh Bắc Ninh giai đoạn 2026 - 2030 vừa được UBND tỉnh phê duyệt, phát triển kinh tế số phải chiếm 45% GRDP tỉnh. Tỷ lệ doanh nghiệp vừa và nhỏ của địa phương ứng dụng công nghệ số đạt 60%.

Kế hoạch vừa được UBND tỉnh Bắc Ninh phê duyệt lấy phát triển kinh tế số và xã hội số (KTS&XHS) là định hướng chiến lược, là cơ hội để Bắc Ninh bứt phá trong quá trình chuyển đổi mô hình tăng trưởng, nâng cao năng suất, chất lượng và năng lực cạnh tranh của nền kinh tế.
Kế hoạch nhấn mạnh: “Đây không chỉ là không gian tăng trưởng mới của tỉnh trong giai đoạn 2026 - 2030, mà còn là động lực then chốt được thúc đẩy bởi khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo (ĐMST) và chuyển đổi số (CĐS), góp phần đưa Bắc Ninh trở thành trung tâm công nghiệp công nghệ cao, đô thị thông minh và trở thành một trong những địa phương dẫn đầu cả nước về phát triển KTS, XHS và CĐS.
Kinh tế số và xã hội số bước sang giai đoạn phát triển theo chiều sâu, đặt trọng tâm vào chất lượng, hiệu quả và tính bền vững, gắn với hiện đại hóa quản trị chính quyền các cấp. Chính quyền tỉnh đóng vai trò kiến tạo và dẫn dắt thông qua thể chế, chính sách đột phá và quản trị số thông minh; người dân và doanh nghiệp (DN) là trung tâm, là chủ thể tham gia và thụ hưởng; trong đó, DN công nghệ số tư nhân của tỉnh giữ vai trò quan trọng trong hệ sinh thái phát triển KTS&XHS.
Phát triển kinh tế số của tỉnh được dựa trên 5 yếu tố nền móng đồng bộ: thể chế, chính sách phù hợp và linh hoạt; nhân lực số chất lượng cao; hạ tầng số hiện đại, an toàn, phủ rộng đến cơ sở; dữ liệu trở thành yếu tố sản xuất chủ đạo; và làm chủ các công nghệ chiến lược.
Về làm chủ công nghệ chiến lược, Kế hoạch nêu rõ cần đẩy nhanh quá trình tích hợp AI vào các hoạt động của nền kinh tế, tăng năng suất lao động, bảo đảm nguyên tắc đạo đức, an toàn và quyền riêng tư.
Trọng tâm của việc chuyển đổi AI là mỗi ngành, lĩnh vực cần xác định một số bài toán trọng điểm có thể giải quyết hiệu quả bằng AI; Triển khai hỗ trợ DN chuyển đổi AI, trong đó: thúc đẩy DN ứng dụng AI trong quy trình quản trị, vận hành, sản xuất - kinh doanh; phát huy vai trò DN công nghệ số trong phát triển nền tảng tích hợp AI, phổ cập dịch vụ AI đến các DN nhỏ và vừa.
KTS của tỉnh Bắc Ninh được ưu tiên triển khai trong các ngành, lĩnh vực có lợi thế cạnh tranh của tỉnh như công nghiệp công nghệ cao, dịch vụ, thương mại điện tử, đô thị thông minh; lấy nền tảng số quốc gia và các nền tảng số của tỉnh làm môi trường triển khai chủ đạo, gắn kết với phát triển xanh và bền vững. Ứng dụng công nghệ số để đánh giá kết quả và hiệu quả hoạt động khoa học, công nghệ và ĐMST.
Bảo đảm an ninh mạng, an toàn dữ liệu và bảo vệ chủ quyền số trên không gian mạng là yêu cầu xuyên suốt, không thể tách rời trong quá trình phát triển KTS&XHS của tỉnh. Bắc Ninh chủ động xây dựng năng lực phòng vệ, giám sát và ứng cứu sự cố an ninh mạng; bảo đảm an toàn thông tin cho hệ thống chính quyền, DN và người dân, góp phần giữ vững an ninh, trật tự trên không gian mạng.
Kế hoạch đặt mục tiêu phát triển KTS đến năm 2030 chiếm 45% GRDP tỉnh; phấn đấu mỗi năm phát triển từ 5 bộ dữ liệu mở chất lượng cao phục vụ phát triển KTS&XHS; công bố trên Cổng Dữ liệu mở tỉnh Bắc Ninh và Cổng Dữ liệu mở quốc gia; có tối thiểu 05 kịch bản ứng dụng dữ liệu cấp tỉnh, ngành và địa phương. Đến năm 2030, tỉnh Bắc Ninh có ít nhất 20 tập dữ liệu mở phục vụ phát triển KTS&XHS được công bố.
Tỷ lệ DN vừa và nhỏ địa phương ứng dụng công nghệ số đạt 60%. Tỷ lệ DN có hoạt động ĐMST đạt tối thiểu 40%. Kinh phí chi cho nghiên cứu phát triển (R&D)/GRDP tối thiểu 2%.
Phát triển xã hội số đến năm 2030 phải đạt các mục tiêu tỷ lệ: người sử dụng có khả năng truy cập băng rộng cố định với tốc độ 01 Gb/s đạt 100%; phủ sóng 5G trên địa bàn đạt 100% dân số; người dân kết nối mạng được bảo vệ ở mức cơ bản đạt 80%; người dân có tài khoản định danh điện tử (VNeID) đạt 80%; dân số từ 15 tuổi trở lên có tài khoản giao dịch tại ngân hàng hoặc các tổ chức được phép khác đạt 95%; người dân trưởng thành có chữ ký số hoặc chữ ký điện tử cá nhân đạt 80%; đào tạo, bồi dưỡng, tập huấn kỹ năng số cơ bản cho người dân trong độ tuổi lao động đạt 70%.
Cùng với đó, tỷ lệ hồ sơ dịch vụ công trực tuyến toàn trình đạt 80%; dân số trưởng thành tiếp cận dịch vụ số trong y tế, giáo dục, bảo hiểm, giao thông đạt 90%; người dân có Sổ sức khỏe điện tử đạt 95%; giao dịch không dùng tiền mặt đạt 80%; người dân được định danh số đạt 100%; tỷ trọng kinh phí từ xã hội trên kinh phí chi cho nghiên cứu phát triển (R&D) đạt trên 60%./.
