Bộ trưởng Nguyễn Mạnh Hùng: Năm 2026 phải là năm kiểm chứng năng lực hành động
Năm 2026 được xác định là năm bản lề, năm hành động đột phá trong triển khai Nghị quyết số 57 của Bộ Chính trị về phát triển khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số. Sau một năm định hình thể chế và tư duy phát triển mới, yêu cầu đặt ra không còn là “nói đúng khái niệm” mà là tạo ra kết quả thực chất, đo đếm được, tác động rõ ràng đến tăng trưởng kinh tế và chất lượng cuộc sống của người dân.
Tinh thần này được Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ (KH&CN) Nguyễn Mạnh Hùng nhấn mạnh tại Hội nghị tổng kết công tác năm 2025 và triển khai nhiệm vụ năm 2026 của Bộ KH&CN diễn ra ngày 26/12/2025.
Hội nghị có sự tham dự của Phó Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Chí Dũng cùng đại diện các ban, bộ, ngành, địa phương, viện nghiên cứu, trường đại học, doanh nghiệp công nghệ, hiệp hội, các nhà khoa học trong và ngoài nước.

Hội nghị không chỉ là dịp tổng kết một năm hoạt động, mà còn là mốc chuyển hóa tư duy phát triển của ngành KH&CN, đánh dấu giai đoạn chuyển mạnh từ xây dựng thể chế sang tổ chức thực thi, từ định hình khung chính sách sang tạo giá trị cụ thể cho đất nước.
Ba trụ cột hội tụ: Khoa học công nghệ - Đổi mới sáng tạo - Chuyển đổi số “về chung một nhà”
Theo Bộ trưởng Nguyễn Mạnh Hùng, năm 2025 mang ý nghĩa đặc biệt khi đánh dấu lần đầu tiên ba trụ cột: Khoa học công nghệ, Đổi mới sáng tạo và Chuyển đổi số (KHCN, ĐMST và CĐS) được hợp nhất trong cùng một cấu trúc quản lý và tư duy phát triển.
Bộ TT&TT và Bộ KH&CN sau khi hợp nhất đã hình thành một hệ quy chiếu phát triển mới, làm thay đổi căn bản nhận thức về vai trò của Nhà nước, của công nghệ và của ngành đối với sự phát triển quốc gia trong kỷ nguyên số.

Trong 5 năm qua, một loạt khái niệm phát triển mới đã được hình thành và lan tỏa: Từ hạ tầng số, nền tảng số, ĐMST, kinh tế số, chính phủ số đến chủ quyền công nghệ, tự chủ công nghệ chiến lược.
Những khái niệm này không chỉ dừng lại ở ngôn từ, mà từng bước tái định hình cách thức Việt Nam tiếp cận phát triển trong bối cảnh toàn cầu hóa, cạnh tranh công nghệ và chuyển dịch mô hình tăng trưởng.
Nếu trước đây, hạ tầng chủ yếu được hiểu là hạ tầng vật lý và viễn thông, thì trong những năm gần đây, hạ tầng số đã trở thành trụ cột chiến lược mới. Hạ tầng số không chỉ là mạng kết nối, mà bao gồm hạ tầng dữ liệu, hạ tầng điện toán đám mây, hạ tầng tri thức AI, hạ tầng định danh và tin cậy số.
Sự chuyển dịch này đã đưa Ngành từ vai trò “kết nối” sang vai trò kiến tạo không gian phát triển số cho toàn xã hội và nền kinh tế, tạo điều kiện để các ngành, lĩnh vực khác tăng tốc CĐS, nâng cao năng suất và khả năng cạnh tranh.
Một trong những chuyển đổi tư duy tiêu biểu là lĩnh vực bưu chính. Bưu chính không còn chỉ là hoạt động chuyển phát truyền thống mà đang được nâng tầm trở thành hạ tầng logistics quốc gia, đóng vai trò kết nối vận tải, kho bãi, chuỗi cung ứng, thương mại điện tử và dòng chảy dữ liệu.
Theo Bộ trưởng, đây không chỉ là số hóa hoạt động bưu chính, mà là xây dựng một hạ tầng chiến lược bảo đảm dòng chảy vật chất song song với dòng chảy dữ liệu, góp phần giảm chi phí logistics, nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế trong bối cảnh kinh tế số ngày càng phát triển.
Trong khi đó, khái niệm nền tảng số đã mang tính đột phá trong tư duy phát triển công nghệ. Thay vì mỗi cơ quan, doanh nghiệp (DN) phát triển một hệ thống riêng lẻ, Việt Nam đang chuyển sang xây dựng các nền tảng dùng chung, cho phép nhiều chủ thể cùng tham gia, cùng khai thác và cùng tạo ra giá trị.
Cách tiếp cận này tạo ra hiệu ứng lan tỏa và quy mô, giảm chi phí xã hội, tăng khả năng tái sử dụng và thúc đẩy ĐMST. Đây là sự thay đổi mang tính cấu trúc, không chỉ về công nghệ mà về mô hình tổ chức, quản lý và hợp tác.
Trong lĩnh vực KH&CN, ĐMST đã trở thành trọng tâm mới, thay thế cách tiếp cận thuần túy dựa trên số lượng đề tài, công bố khoa học.
Nếu trước đây, khoa học chủ yếu được đánh giá qua đầu ra tri thức, thì ĐMST đặt trọng tâm vào khả năng tạo ra giá trị mới, giải quyết vấn đề thực tiễn và đóng góp cho tăng trưởng kinh tế. Đây là sự chuyển dịch từ “làm khoa học để có tri thức” sang “làm khoa học để phát triển đất nước”.
Bộ trưởng Nguyễn Mạnh Hùng ví ĐMST là “nối tay trên trời với tay dưới đất”, gắn kết chặt chẽ nghiên cứu, công nghệ, thị trường và chính sách. KHCN không chỉ có kết quả nghiên cứu mà phải trở thành động lực tăng năng suất, năng lực cạnh tranh và phát triển bền vững.
CĐS đã làm thay đổi căn bản cách thức ứng dụng công nghệ trong quản lý và vận hành. Không còn là đưa máy tính vào quy trình cũ, CĐS là tái thiết kế mô hình hoạt động, phương thức quản trị và cung cấp dịch vụ.
Sự chuyển dịch từ chính phủ điện tử sang chính phủ số thể hiện bước tiến sâu hơn trong tư duy quản trị nhà nước. Chính phủ số vận hành dựa trên dữ liệu, ra quyết định dựa trên bằng chứng, cung cấp dịch vụ chủ động và cá nhân hóa cho người dân.
“Điều này đòi hỏi cơ quan quản lý không chỉ làm kỹ thuật, mà phải trở thành cơ quan kiến tạo thể chế và năng lực số quốc gia”.
Tiếp đó, Bộ trưởng cho biết khái niệm kinh tế số đã giúp nhìn nhận lại vị trí của ngành ICT. “Ngành ICT không còn là một lĩnh vực kinh tế độc lập, mà trở thành hạ tầng và động lực cho mọi ngành, mọi lĩnh vực, từ sản xuất, dịch vụ đến quản lý xã hội”.
“Kinh tế số không phải là một phần nhỏ, mà đang và sẽ trở thành thành phần quan trọng nhất của nền kinh tế, quyết định năng lực cạnh tranh quốc gia trong dài hạn”, Bộ trưởng nhấn mạnh.
Nghị quyết 57: Đặt KHCN, ĐMST và CĐS vào trung tâm mô hình tăng trưởng
Nói về một năm triển khai Nghị quyết 57, Bộ trưởng Nguyễn Mạnh Hùng khẳng định: KHCN, ĐMST và CĐS đã được đặt đúng vị trí trung tâm của mô hình tăng trưởng quốc gia.
Hệ thống thể chế về KHCN, ĐMST và CĐS của Việt Nam hiện đã tiệm cận trình độ các nước phát triển, thậm chí một số lĩnh vực thuộc nhóm đi đầu, như Luật CĐS, Luật AI, Luật Công nghiệp công nghệ số...
Một điểm sáng quan trọng là kết quả ban đầu trong làm chủ công nghệ lõi. “Việt Nam đã đạt tỷ lệ nội địa hóa cao ở một số sản phẩm công nghệ chiến lược như tên lửa hành trình, UAV, camera AI; làm chủ một số giống lúa, vắc-xin; phát triển và ứng dụng mô hình ngôn ngữ lớn tiếng Việt”.
“Những kết quả này tạo niềm tin thực chất về năng lực tự chủ công nghệ của Việt Nam - yếu tố then chốt để phát triển bền vững trong bối cảnh cạnh tranh công nghệ toàn cầu”, Bộ trưởng khẳng định.

Năm 2026: Chuyển mạnh từ thể chế sang kết quả
Theo chỉ đạo của Tổng Bí thư Tô Lâm, năm 2026 là năm hành động đột phá, lan tỏa kết quả. Theo đó, Bộ trưởng Nguyễn Mạnh Hùng nhấn mạnh Bộ KH&CN xác định đây là năm tăng tốc triển khai Nghị quyết 57, chuyển từ xây dựng thể chế sang tạo ra sản phẩm cụ thể, đo đếm được.
“Nguồn lực sẽ được tập trung cho một số dự án trọng điểm quốc gia, thay vì dàn trải. Mỗi lĩnh vực sẽ có một số nhiệm vụ mũi nhọn, gắn trực tiếp với bài toán 'tăng trưởng hai con số', có đầu ra rõ ràng và người chịu trách nhiệm cụ thể. Hình thành thị trường đầu ra bằng cơ chế Nhà nước mua kết quả”.
Đột phá lớn nhất trong năm 2026, theo Bộ trưởng Nguyễn Mạnh Hùng, là hình thành thị trường đầu ra cho KH&CN thông qua cơ chế Nhà nước mua kết quả.
Thay vì tài trợ đầu vào, cấp phát theo quy trình, Nhà nước sẽ đặt hàng sản phẩm, giải pháp cụ thể và thanh toán theo kết quả đo đếm được. Đây là mô hình đã chứng minh hiệu quả trong thực tiễn, như việc Nhà nước đặt hàng Viettel sản xuất tên lửa hành trình từ năm 2014.
Khi có cầu thật và đơn hàng thật, Bộ trưởng cho rằng: DN công nghệ, viện nghiên cứu và trường đại học sẽ tham gia mạnh mẽ, buộc hệ thống quản lý chuyển từ “đúng quy trình” sang “đúng mục tiêu”.
Đề xuất chuyển KH&CN sang khối kinh tế - công nghiệp - công nghệ
Kết luận Hội nghị, Bộ trưởng Nguyễn Mạnh Hùng cũng đề xuất chuyển KH&CN từ khối văn hóa - xã hội sang khối kinh tế - công nghiệp - công nghệ, phù hợp với thông lệ quốc tế.
“Đây không chỉ là thay đổi hành chính, mà là chuyển đổi tư duy phát triển, khẳng định KH&CN là động lực tăng trưởng, là hạ tầng chiến lược giống như điện, giao thông, và là “đầu kéo” của sản xuất, công nghiệp và kinh tế số”.
“Năm 2026 vì thế không chỉ là năm kế hoạch mà là năm kiểm chứng năng lực hành động. Thành công của Nghị quyết 57 sẽ được đo bằng sản phẩm cụ thể, tăng trưởng thực chất và niềm tin của xã hội vào vai trò dẫn dắt của KH&CN đối với tương lai phát triển đất nước”, Bộ trưởng nhấn mạnh./.