Chuyện giảm nghèo bền vững ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số tại Lào Cai
Lào Cai là một tỉnh miền núi biên giới với đặc thù địa hình chia cắt mạnh, khí hậu khắc nghiệt, dân cư phân tán và hơn 30 dân tộc cùng sinh sống. Sau sắp xếp địa giới, người dân tộc thiểu số chiếm trên 60% dân số toàn tỉnh, tập trung ở các xã vùng cao, vùng sâu và dọc tuyến biên giới. Xuất phát điểm thấp về hạ tầng, thu nhập và dịch vụ xã hội khiến nghèo đói ở đây mang tính “đa chiều”, không chỉ thiếu tiền, mà còn thiếu nhà kiên cố, thiếu đường đi, thiếu nước sạch, thiếu tiếp cận y tế - giáo dục - thông tin. Chính vì vậy, giảm nghèo ở Lào Cai không thể là chuyện hỗ trợ ngắn hạn, mà phải là một quá trình dài, có chính sách đặc thù và sự vào cuộc bền bỉ của cả hệ thống chính trị.
Những năm gần đây, bức tranh ấy đã thay đổi rõ rệt. Lào Cai được nhìn nhận như một địa phương làm khá tốt bài toán giảm nghèo ở vùng dân tộc thiểu số, với cách tiếp cận “đi từ gốc”: Ưu tiên an cư, mở đường sinh kế, nâng chất dịch vụ xã hội và khơi dậy nội lực cộng đồng.
Cách làm này bám sát tinh thần của hai Chương trình mục tiêu quốc gia đang triển khai đồng thời: Chương trình giảm nghèo bền vững và Chương trình phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021-2030 (giai đoạn I 2021-2025) theo Quyết định 1719/QĐ-TTg.

An cư là nền móng
Ở vùng cao, một căn nhà kiên cố không chỉ là chỗ che mưa nắng, mà còn là “tài sản an sinh” giúp người nghèo có điểm tựa để làm ăn. Lào Cai xác định muốn người dân thoát nghèo bền vững thì trước hết phải giúp họ an cư.
Vì thế, chương trình xóa nhà tạm, nhà dột nát được tỉnh đẩy mạnh theo hướng Nhà nước hỗ trợ một phần, cộng đồng và gia đình góp thêm phần còn lại, kèm tín dụng ưu đãi để đủ lực xây nhà.
Câu chuyện những hộ người H’Mông, Hà Nhì, Dao ở các xã khó khăn như Cao Sơn, Y Tý… được hỗ trợ hàng chục triệu đồng để dựng nhà mới là minh chứng sống động cho chính sách “đúng và trúng”.
Khi có nhà vững, người dân không phải chạy chữa mùa mưa bão, không phải lo “trắng tay” sau một đợt thiên tai, từ đó yên tâm sản xuất và cho con cái đi học đều hơn.
Nhiều văn bản của tỉnh về phân bổ vốn và cơ chế triển khai chương trình giảm nghèo cũng ưu tiên rõ phần nhà ở và hạ tầng an sinh cơ bản.
Thực tế cho thấy, chỉ riêng việc xóa nhà tạm đã tạo ra “hiệu ứng dây chuyền”, người dân có niềm tin hơn vào chính sách, gắn bó hơn với bản làng, và mạnh dạn đầu tư sinh kế dài hạn.
Một đặc thù của nghèo vùng cao là “nghèo vì bị cô lập”. Nếu đường sá không thông, điện - nước - internet thiếu thốn, thì dù có hỗ trợ giống cây con, hộ nghèo cũng khó biến thành thu nhập thật. Lào Cai vì vậy lồng ghép việc đầu tư hạ tầng trong giảm nghèo, đường dân sinh, giao thông nội thôn, công trình nước sinh hoạt, trường lớp, trạm y tế, sóng viễn thông.
Nói cách khác, làm đường, kéo điện, phủ sóng không chỉ là xây dựng cơ bản, mà là “đòn bẩy giảm nghèo”.
Sinh kế dựa vào lợi thế bản địa
Sau khi có nền tảng an cư - hạ tầng, câu hỏi tiếp theo là “làm gì để có thu nhập bền?”. Lào Cai chọn hướng phát triển kinh tế dựa trên lợi thế địa phương, thay vì áp một khuôn mẫu chung cho mọi vùng.
Ở những nơi phù hợp sản xuất nông nghiệp, tỉnh thúc đẩy chuyển từ canh tác tự cung sang nông nghiệp hàng hóa, cây ăn quả ôn đới, rau trái vụ, chăn nuôi đại gia súc, nuôi cá nước lạnh, trồng quế - hồi - dược liệu và các giống bản địa có giá trị cao.
Không chỉ hỗ trợ “đầu vào”, nhiều dự án còn gắn với tập huấn kỹ thuật, liên kết chuỗi, tìm đầu ra. Điều này khớp với định hướng trong kế hoạch giảm nghèo của tỉnh, giảm “cho không”, tăng hỗ trợ có điều kiện để khơi dậy ý chí tự lực và kỹ năng làm ăn.
Khi hộ nghèo được tiếp cận giống mới, kỹ thuật mới và biết nơi bán sản phẩm, thu nhập tăng lên theo cách bền vững hơn nhiều so với trợ cấp đơn lẻ.
Với khí hậu và thổ nhưỡng đặc biệt, Lào Cai có nhiều cây thuốc quý, lại có tri thức bản địa của người Dao, người H’Mông. Chính sách của Trung ương về phát triển vùng dược liệu trong Chương trình dân tộc thiểu số - miền núi tạo hành lang để địa phương mở rộng trồng, chế biến và thương mại hóa. Nhờ đó, dược liệu vừa là sinh kế, vừa là cách giữ rừng - giữ văn hóa.
Giảm nghèo ở vùng dân tộc thiểu số sẽ khó bền nếu chỉ trông vào nông nghiệp, bởi đất hẹp, lao động trẻ di cư, rủi ro thời tiết cao. Lào Cai tận dụng một nguồn lực khác đó là văn hóa và cảnh quan.
Du lịch cộng đồng ở Tả Phìn, Y Tý, Bát Xát, Sa Pa… là ví dụ điển hình cho việc “biến bản sắc thành sinh kế”. Mô hình tắm lá thuốc của người Dao ở Tả Phìn - nghe giản dị nhưng lại là sản phẩm du lịch có giá trị cao.
Đây không chỉ là dịch vụ cho khách, mà là chuỗi việc làm cho phụ nữ địa phương, thu hái - trồng cây thuốc, chế biến, bán sản phẩm, làm homestay, hướng dẫn trải nghiệm. Thu nhập đều hơn, ít phụ thuộc mùa vụ, và quan trọng là tạo ra vị thế kinh tế cho phụ nữ trong gia đình.
Bức tranh toàn cảnh
Một yếu tố làm nên sự khác biệt trong giảm nghèo ở Lào Cai là cách kết hợp giữa hỗ trợ và “đánh thức” nội lực.
Tín dụng ưu đãi của Ngân hàng Chính sách xã hội được coi là đòn bẩy để người dân tự sản xuất thay vì chỉ nhận trợ cấp. Có vốn, người dân mạnh dạn đầu tư đàn bò, vườn cây, homestay hoặc máy móc chế biến nông sản. Vì vốn là ưu đãi, nên áp lực trả không quá lớn, tạo điều kiện cho hộ nghèo đi đường dài.
Nhưng tín dụng chỉ phát huy nếu nhận thức thay đổi. Do đó, các xã vùng cao đẩy mạnh tuyên truyền, vận động người dân “không ỷ lại, không trông chờ”, coi thoát nghèo là việc của chính mình, còn Nhà nước là bệ đỡ.
Cách làm này trùng với yêu cầu chung của chương trình quốc gia, giảm nghèo bền vững phải đi kèm xây dựng năng lực, khơi dậy ý chí và trách nhiệm của người dân.
Lào Cai không chỉ tạo kế sinh nhai, mà đặt mục tiêu nâng chuẩn sống ở mọi chiều. Trẻ em vùng cao được hỗ trợ học tập, giảm tình trạng bỏ học sớm; y tế cơ sở được tăng cường; nước sinh hoạt được ưu tiên ở nơi thiếu; thông tin - viễn thông được phủ đến thôn bản để người dân không còn “mù thông tin”. Những cấu phần này bám sát cụm mục tiêu dịch vụ xã hội cơ bản trong giảm nghèo đa chiều của Trung ương.
Tác động của các chính sách này không chỉ đo bằng tỷ lệ nghèo giảm, mà còn ở sự dịch chuyển chất lượng sống, trẻ em khỏe hơn, học lâu hơn; phụ nữ sinh đẻ an toàn hơn; hộ gia đình có thói quen sản xuất hàng hóa, tiếp cận thị trường và biết sử dụng công nghệ.
Nhờ phối hợp đồng bộ các chính sách đặc thù của Trung ương và nghị quyết - đề án riêng của tỉnh, nhiều xã vùng cao có tốc độ giảm nghèo khá ấn tượng.
Có nơi mức giảm bình quân đạt trên 6-7%/năm, tạo tiền đề để tỉnh đặt mục tiêu giai đoạn 2026-2030 giảm nghèo đa chiều bình quân 2-3%/năm, các xã nghèo giảm ít nhất 4%/năm. Định hướng này được lồng trong các kế hoạch giảm nghèo bền vững của tỉnh giai đoạn hiện tại.
Tất nhiên, hành trình phía trước vẫn có thách thức, một bộ phận hộ nghèo già hóa, ít lao động; di cư lao động trẻ khiến sản xuất tại chỗ thiếu nhân lực; thị trường nông sản và du lịch biến động theo kinh tế chung. Nhưng với nền tảng đã hình thành, Lào Cai có cơ sở để đi tiếp một cách chắc chắn.
Chuyện giảm nghèo bền vững ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số Lào Cai cho thấy một cách tiếp cận đáng học hỏi, giảm nghèo không phải “cho để hết nghèo”, mà là tạo điều kiện để người dân tự đứng vững, tự làm ra thu nhập và tự giữ bản sắc của mình.
Khi nội lực cộng đồng được khơi dậy trên nền chính sách đúng đắn, giảm nghèo sẽ không chỉ bền vững, mà còn trở thành động lực phát triển vùng cao trong dài hạn./.