Truyền thông

Ứng dụng khoa học công nghệ - “chìa khóa” phát triển nông nghiệp bền vững ở miền núi phía Bắc

CM 23/12/2025 08:20

Miền núi phía Bắc là vùng đất có vị trí đặc biệt quan trọng về quốc phòng, an ninh, môi trường sinh thái và phát triển kinh tế - xã hội của cả nước. Đây cũng là nơi sinh sống của đông đảo đồng bào dân tộc thiểu số, với nhiều tiềm năng, lợi thế để phát triển nông lâm nghiệp. Tuy nhiên, thực tiễn cho thấy, để khai thác hiệu quả các lợi thế này và hướng tới phát triển bền vững, việc ứng dụng khoa học và công nghệ đang giữ vai trò then chốt.

Nông nghiệp miền núi phía Bắc: Nhiều tiềm năng nhưng còn không ít rào cản

Những năm qua, nông nghiệp và nông thôn miền núi phía Bắc đã có những bước chuyển tích cực. Cơ cấu sản xuất từng bước chuyển từ tự cung tự cấp sang sản xuất hàng hóa; nhiều vùng chuyên canh cây trồng có giá trị như chè, cà phê, cao su, cây ăn quả, rừng trồng đã được hình thành.

Chương trình xây dựng nông thôn mới được triển khai rộng khắp, góp phần cải thiện hạ tầng, nâng cao thu nhập và giảm tỷ lệ hộ nghèo. Tuy nhiên, so với các vùng khác, tăng trưởng nông lâm nghiệp ở miền núi phía Bắc vẫn còn chậm.

Sản xuất nhỏ lẻ, phân tán, năng suất thấp và khả năng cạnh tranh yếu là những “điểm nghẽn” lớn. Nguyên nhân sâu xa đến từ điều kiện tự nhiên khắc nghiệt và những hạn chế trong ứng dụng tiến bộ khoa học công nghệ.

Địa hình dốc là đặc trưng nổi bật của vùng, trong đó diện tích đất có độ dốc trên 25 độ chiếm hơn 60%. Do thiếu đất sản xuất, nhiều hộ dân vẫn phải canh tác trên đất dốc lớn, dẫn đến xói mòn, thoái hóa đất, năng suất cây trồng giảm nhanh chỉ sau vài vụ.

Tình trạng này không chỉ làm suy kiệt tài nguyên đất, rừng mà còn gia tăng nguy cơ thiên tai như lũ quét, sạt lở đất và hạn hán kéo dài.

Ứng dụng khoa học và công nghệ: Bước chuyển quan trọng trong sản xuất

Trong bối cảnh đó, khoa học công nghệ đã và đang trở thành “đòn bẩy” quan trọng giúp nông nghiệp miền núi phía Bắc vượt qua những rào cản tự nhiên.

Theo đánh giá của Viện Khoa học Kỹ thuật Nông Lâm nghiệp miền núi phía Bắc, nhiều tiến bộ kỹ thuật đã được nghiên cứu, thử nghiệm và chuyển giao thành công, góp phần nâng cao năng suất, chất lượng và hiệu quả sản xuất.

455-202512171404091.jpg
Ứng dụng tiến bộ khoa học và công nghệ đã góp phần nâng cao năng suất, chất lượng nhiều sản phẩm nông nghiệp.

Nổi bật là việc chọn tạo và đưa vào sản xuất nhiều giống cây trồng mới phù hợp với điều kiện sinh thái của vùng.

Trong lĩnh vực chè, 21 giống mới đã được công nhận và ứng dụng rộng rãi, giúp tỷ lệ giống chè mới chiếm khoảng 60% diện tích trồng, năng suất bình quân tăng khoảng 45%.

Cùng với đó, các quy trình canh tác, chế biến chè xanh đặc sản, chè ô long, chè ép bánh được triển khai tại nhiều địa phương, góp phần nâng cao giá trị sản phẩm.

Với cây ăn quả, hàng loạt giống mới như vải chín sớm, xoài chín sớm, chuối tiêu lùn, lạc tiên… đã được chuyển giao cho nông dân các tỉnh miền núi. Các tiến bộ kỹ thuật về bón phân, xử lý ra hoa, phòng trừ dịch hại tổng hợp và bảo quản sau thu hoạch giúp sản xuất ngày càng ổn định và hiệu quả hơn.

Không chỉ dừng lại ở cây trồng chủ lực, khoa học công nghệ còn góp phần đa dạng hóa sinh kế thông qua phát triển cây lương thực, cây thức ăn chăn nuôi, cây rau - hoa - dược liệu và hệ thống canh tác bền vững trên đất dốc.

Nhiều mô hình canh tác ngô, sắn bền vững, trồng xen cây nông nghiệp với cây lâm nghiệp đã mang lại hiệu quả kinh tế rõ rệt, đồng thời góp phần bảo vệ môi trường sinh thái.

Gắn khoa học và công nghệ với xây dựng nông thôn mới

Một điểm đáng chú ý là việc ứng dụng khoa học công nghệ ngày càng gắn chặt với Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới. Thông qua các mô hình phát triển sản xuất quy mô hộ, mô hình liên kết sản xuất - chế biến - tiêu thụ, nhiều địa phương đã từng bước hình thành vùng sản xuất hàng hóa tập trung.

Các mô hình sản xuất chè theo tiêu chuẩn VietGAP tại Phú Thọ, Thái Nguyên, Lào Cai… là ví dụ điển hình cho hiệu quả của việc kết hợp tiến bộ kỹ thuật với tổ chức sản xuất và liên kết thị trường. Nhờ đó, giá trị sản phẩm được nâng lên, đầu ra ổn định hơn, thu nhập của người dân được cải thiện rõ rệt.

Vẫn còn những “nút thắt” cần tháo gỡ

Dù đạt được nhiều kết quả tích cực, việc ứng dụng khoa học công nghệ ở miền núi phía Bắc vẫn chưa tương xứng với tiềm năng.

Trình độ tiếp cận công nghệ của người dân còn hạn chế; công tác chuyển giao kỹ thuật ở cơ sở chưa đồng bộ; nhiều mô hình khoa học còn có quy mô nhỏ, khó nhân rộng. Đầu tư cho nghiên cứu và chuyển giao khoa học và công nghệ chưa đáp ứng đầy đủ yêu cầu phát triển của vùng.

Bên cạnh đó, chính sách đãi ngộ cho đội ngũ cán bộ khoa học trực tiếp chuyển giao tiến bộ kỹ thuật còn chưa tương xứng, ảnh hưởng đến hiệu quả lan tỏa của khoa học công nghệ trong sản xuất.

Định hướng phát triển nông nghiệp bền vững trong thời gian tới

Để nông nghiệp miền núi phía Bắc phát triển bền vững, việc đẩy mạnh ứng dụng khoa học công nghệ cần được đặt trong tổng thể tái cơ cấu ngành nông nghiệp và xây dựng nông thôn mới.

Trọng tâm là rà soát, điều chỉnh quy hoạch cây trồng theo lợi thế từng tiểu vùng; phát triển các cây trồng chủ lực như chè, cây ăn quả, cao su, cà phê, dược liệu gắn với chế biến và thị trường.

Song song với đó, cần tăng cường đầu tư cho công nghiệp chế biến, bảo quản sau thu hoạch nhằm giảm tổn thất và nâng cao giá trị gia tăng. Ứng dụng khoa học công nghệ trong dự báo, phòng chống dịch hại, thích ứng với biến đổi khí hậu và bảo đảm an toàn thực phẩm sẽ là yếu tố quyết định cho sự phát triển lâu dài.

Thực tiễn cho thấy, khoa học công nghệ không chỉ giúp nâng cao năng suất, chất lượng nông sản mà còn góp phần thay đổi tư duy sản xuất, tổ chức lại sản xuất theo hướng hiện đại, bền vững.

Với sự vào cuộc đồng bộ của các cấp, các ngành, đặc biệt là vai trò của các viện nghiên cứu, doanh nghiệp và người dân, khoa học công nghệ sẽ tiếp tục là “chìa khóa” để nông nghiệp miền núi phía Bắc phát triển hiệu quả, nâng cao đời sống người dân và đóng góp tích cực vào phát triển kinh tế - xã hội của đất nước./.

CM