Khuyến nông cộng đồng: “Cầu nối” tri thức, thị trường, góp phần giảm nghèo đa chiều ở nông thôn
Trong bối cảnh nông nghiệp đứng trước yêu cầu chuyển mạnh sang sản xuất hàng hóa, nâng chất lượng, giảm phát thải và thích ứng biến đổi khí hậu, công tác khuyến nông đang được làm mới theo hướng “gần dân, sát dân, vì dân”. Từ thực tiễn nhiều địa phương, mô hình tổ khuyến nông cộng đồng nổi lên như một cách tổ chức phù hợp, không chỉ chuyển giao kỹ thuật mà còn hỗ trợ nông dân tổ chức lại sản xuất, kết nối doanh nghiệp - hợp tác xã - hộ dân, thúc đẩy chuyển đổi số và nâng năng lực tiếp cận dịch vụ xã hội cơ bản, qua đó đóng góp thiết thực cho mục tiêu giảm nghèo đa chiều.
Từ “dạy kỹ thuật” sang “đồng hành trong chuỗi giá trị”
Khác với cách làm truyền thống thiên về tập huấn theo chương trình “đóng sẵn”, mô hình khuyến nông cộng đồng nhấn mạnh việc trao quyền lựa chọn nội dung cho người dân, gắn tập huấn với nhu cầu cụ thể của từng vùng sinh thái, từng ngành hàng.
Tổ khuyến nông cộng đồng thường được tổ chức ngay tại cơ sở, huy động cán bộ chuyên môn cùng nông dân sản xuất giỏi, hợp tác xã, tổ hợp tác và đại diện doanh nghiệp tham gia.
Cách làm này phù hợp với định hướng hoạt động khuyến nông đã được Nhà nước quy định, trong đó xác định khuyến nông là hoạt động hỗ trợ đào tạo, tập huấn, thông tin tuyên truyền, xây dựng mô hình, tư vấn - dịch vụ nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất và thu nhập cho người dân nông thôn.
Điểm mới quan trọng là khuyến nông không dừng ở “cầm tay chỉ việc” trong sản xuất, mà chuyển dần sang vai trò dịch vụ công hỗ trợ phát triển, hướng dẫn quy trình sản xuất an toàn, giám sát chất lượng vật tư đầu vào, hỗ trợ ghi chép nhật ký, truy xuất nguồn gốc, kết nối tiêu thụ và chia sẻ rủi ro trong liên kết.
Sau giai đoạn triển khai đề án và nhân rộng, mạng lưới tổ khuyến nông cộng đồng phát triển nhanh tại nhiều địa phương. Theo Báo cáo thực hiện nâng cao hiệu quả công tác khuyến nông gắn với kiện toàn mô hình tổ khuyến nông cộng đồng, chỉ tính trong năm 2024 hệ thống khuyến nông ghi nhận cả nước đã thành lập 5.036 tổ khuyến nông cộng đồng với 45.588 thành viên tại 57 tỉnh/thành phố.
Những con số này cho thấy, chủ trương “đưa khuyến nông về cơ sở” đang được cụ thể hóa bằng tổ chức và nhân lực, tạo nền tảng để lan tỏa tiến bộ kỹ thuật, nâng năng lực quản trị sản xuất của nông dân và thúc đẩy liên kết vùng nguyên liệu.
Góp phần giảm nghèo đa chiều từ những việc “rất cụ thể”
Theo tiếp cận nghèo đa chiều, giảm nghèo không chỉ là tăng thu nhập mà còn là cải thiện khả năng tiếp cận dịch vụ y tế, giáo dục, hạ tầng và thông tin.
Tổ khuyến nông cộng đồng, vì vậy, có lợi thế khi đứng ở “điểm chạm” gần dân nhất đó là hỗ trợ kỹ thuật để tăng năng suất; hướng dẫn sản xuất sạch để nâng giá trị; kết nối hợp tác xã/doanh nghiệp để ổn định đầu ra; đồng thời lồng ghép phổ biến kiến thức về dinh dưỡng, vệ sinh môi trường, phòng dịch bệnh trong chăn nuôi, sử dụng nước sạch, bảo hiểm y tế… tùy điều kiện từng địa bàn.
Ở các địa bàn khó khăn, việc “học tại chỗ, làm tại chỗ, bán theo chuỗi” giúp người dân giảm rủi ro thị trường, hạn chế tình trạng sản xuất manh mún, phụ thuộc thương lái.

Chuyển đổi số trong nông nghiệp cũng không dừng ở ứng dụng ở doanh nghiệp lớn, mà cần thấm xuống cấp hộ, hợp tác xã. Thực tiễn triển khai ở nhiều nơi cho thấy, khi tổ khuyến nông cộng đồng được chọn làm hạt nhân, việc hướng dẫn nông dân dùng ứng dụng ghi nhật ký sản xuất, tạo mã truy xuất, số hóa hồ sơ chứng nhận… trở nên khả thi hơn nhờ có lực lượng “kèm cặp” thường xuyên, giải đáp ngay tại ruộng vườn.
Nỗ lực này cũng phù hợp với định hướng chuyển đổi số ngành nông nghiệp giai đoạn 2022-2025, trong đó nhấn mạnh việc phát triển dữ liệu, nền tảng số và ứng dụng số trong quản lý và tổ chức sản xuất.
Nâng cao hiệu quả hoạt động: Cần cơ chế, nguồn lực cụ thể
Để mô hình đi vào chiều sâu, cần có các yêu cầu cụ thể đặt ra, bao gồm:
Chuẩn hóa cơ chế vận hành: Xây dựng quy chế hoạt động, phân công rõ nhiệm vụ, gắn trách nhiệm với kết quả hỗ trợ nông dân.
Đào tạo nâng năng lực: Ngoài kỹ thuật canh tác/chăn nuôi, cần bồi dưỡng kỹ năng truyền thông, thương mại nông sản, quản trị chuỗi, chuyển đổi số, an toàn sinh học và thích ứng rủi ro.
Kết nối nguồn lực: Khuyến khích doanh nghiệp, hợp tác xã tham gia ngay từ khâu quy hoạch vùng nguyên liệu, tiêu chuẩn chất lượng, bao tiêu hoặc đặt hàng sản xuất.
Bảo đảm điều kiện hoạt động: Trang thiết bị tối thiểu, kinh phí hỗ trợ theo nhiệm vụ; gắn hoạt động khuyến nông với chương trình mục tiêu, dự án khuyến nông trung ương và địa phương.
Về phía Trung ương, hệ thống văn bản và chương trình khuyến nông tiếp tục được cập nhật theo yêu cầu mới. Bộ Nông nghiệp và Môi trường đã phê duyệt Chương trình khuyến nông trung ương giai đoạn 2026-2030, đặt cơ sở để tổ chức các dự án, nhiệm vụ khuyến nông theo định hướng phát triển bền vững và nâng cao giá trị gia tăng.
Bên cạnh những kết quả bước đầu, thực tiễn cũng cho thấy khuyến nông cộng đồng chỉ phát huy trọn vẹn khi được đặt trong một “hệ sinh thái” đồng bộ của nông thôn mới, từ quy hoạch vùng sản xuất, tổ chức hợp tác xã, hạ tầng thủy lợi - giao thông nội đồng, đến tín dụng vi mô, bảo hiểm nông nghiệp và thương mại điện tử.
Ở nhiều nơi, nông dân đã biết sản xuất theo tiêu chuẩn, nhưng vẫn gặp khó ở khâu sau thu hoạch, bảo quản, sơ chế và logistics. Vì vậy, cùng với việc truyền đạt kỹ thuật, cán bộ khuyến nông cộng đồng ngày càng phải đảm đương vai trò “điều phối viên” kết nối các mắt xích, hỗ trợ bà con chọn giống phù hợp, tổ chức lịch thời vụ đồng loạt; hướng dẫn quy trình kiểm soát chất lượng; thúc đẩy ký kết tiêu thụ; đồng thời tư vấn cách tính chi phí - lợi nhuận để nông dân ra quyết định sản xuất theo tín hiệu thị trường.
Một vấn đề khác cần đặc biệt quan tâm là chất lượng nguồn nhân lực ở cơ sở. Nếu khuyến nông cộng đồng được xem là “cánh tay nối dài” của hệ thống chuyên môn, thì năng lực của đội ngũ này phải được cập nhật thường xuyên, nhất là trước các yêu cầu mới như canh tác giảm phát thải, quản lý dịch hại tổng hợp, an toàn sinh học trong chăn nuôi, và kỹ năng số.
Không ít địa bàn vùng sâu, vùng xa có rào cản ngôn ngữ, tập quán canh tác lâu đời; vì thế, việc lựa chọn “khuyến nông viên tại chỗ” là nông dân tiêu biểu, già làng, trưởng bản, người có uy tín… tham gia tổ khuyến nông cộng đồng giúp thông tin kỹ thuật đi vào đời sống dễ hơn, bền hơn.
Cùng với đó, cần coi trọng công tác “hậu tập huấn”. Kinh nghiệm ở nhiều địa phương cho thấy, một buổi hướng dẫn chỉ tạo nhận biết ban đầu; muốn thay đổi tập quán sản xuất phải có theo dõi, kiểm tra và kèm cặp qua từng vụ.
Do vậy, tổ khuyến nông cộng đồng cần được giao chỉ tiêu theo sản phẩm đầu ra, số hộ áp dụng quy trình, diện tích sản xuất đạt tiêu chuẩn, tỷ lệ giảm chi phí đầu vào, số hợp đồng liên kết… Khi hiệu quả được đo bằng kết quả cụ thể, hoạt động khuyến nông sẽ thoát khỏi tính phong trào, chuyển sang nền nếp.
Về lâu dài, khuyến nông cộng đồng không chỉ góp phần tăng thu nhập, mà còn nâng “dân trí sản xuất” ở nông thôn, biết học, biết hỏi, biết làm theo quy trình, biết liên kết và biết phòng rủi ro.
Đó chính là nền tảng để giảm nghèo đa chiều một cách cơ bản, hạn chế tái nghèo, từng bước hình thành lớp nông dân mới - chủ động, chuyên nghiệp, thích ứng nhanh với biến động thị trường và thiên tai, dịch bệnh./.