Truyền thông

Tìm lời giải cho bài toán giảm nghèo bền vững ở Đồng bằng sông Cửu Long

VH 12/12/2025 08:05

Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) từ lâu được nhìn nhận như “bệ đỡ” của an ninh lương thực và xuất khẩu nông sản. Nhưng cũng chính ở vùng đất giàu tiềm năng ấy, cảm giác “nghèo đều” lại xuất hiện như một nghịch lý xã hội. Điều cần nhấn mạnh: nghèo ở đây không đơn thuần là “thiếu tiền”, mà là thiếu hụt nhiều chiều - từ y tế, giáo dục, nhà ở, nước sạch, thông tin đến khả năng chống chịu rủi ro. Khi đo bằng chuẩn nghèo đa chiều, bức tranh trở nên khác hẳn so với các thống kê thu nhập truyền thống.

Khi nghèo không chỉ là thu nhập

Theo công bố kết quả rà soát hộ nghèo, hộ cận nghèo theo chuẩn nghèo đa chiều giai đoạn 2022-2025, tỷ lệ nghèo đa chiều toàn quốc là 5,71%; riêng vùng ĐBSCL là 4,15% (tính gộp hộ nghèo và hộ cận nghèo đa chiều).

Con số này có thể thấp hơn một số ước tính do khác biệt về cách tính, mốc thời gian và phạm vi “gộp” nghèo - cận nghèo; nhưng điều không thay đổi đó là một bộ phận đáng kể người dân ĐBSCL vẫn thiếu hụt dịch vụ xã hội cơ bản và rất dễ bị đẩy lùi khi gặp “cú sốc” thiên tai, bệnh tật hay biến động thị trường.

Sự “dễ tổn thương” đó được minh họa rõ bởi tác động của hạn hán - xâm nhập mặn. Chỉ riêng đợt hạn mặn giai đoạn 2023-2024 đã làm hàng nghìn hecta lúa bị giảm năng suất hoặc thiệt hại, đồng thời có hàng chục nghìn hộ thiếu nước sinh hoạt.

442-202512160846121.jpg
Thiếu nước sạch, mất mùa, chi phí bơm tưới tăng, giá vật tư nông nghiệp biến động… thường không xuất hiện trong một bảng thu nhập bình quân, nhưng lại quyết định sức bền của sinh kế nông hộ.

Vì sao “giàu sản lượng” mà vẫn “nghèo đều”?

Nghịch lý của ĐBSCL không nằm ở chỗ vùng thiếu tài nguyên, mà nằm ở cấu trúc phát triển, nhiều sản lượng nhưng giá trị gia tăng thấp.

Sản xuất nông nghiệp truyền thống, đặc biệt là lúa gạo thường dựa vào hộ nhỏ lẻ, khó tích tụ ruộng đất, khó chuẩn hóa quy trình và càng khó thương lượng với các tác nhân thị trường. Khi chuỗi giá trị ngắn và khâu chế biến - logistics yếu, phần giá trị lớn nhất không nằm ở người trực tiếp sản xuất.

Chính sách cũng đã chỉ ra những “yếu kém nội tại” ấy. Chỉ thị về phát triển bền vững nông nghiệp - nông thôn vùng ĐBSCL nhấn mạnh thách thức từ biến đổi khí hậu, khai thác sử dụng nước thượng nguồn; đồng thời chỉ ra hạn chế của nền sản xuất nhỏ, thiếu hợp tác - liên kết; hạ tầng logistics chưa đáp ứng sản xuất quy mô lớn; hiệu quả hợp tác xã còn bất cập; và xu hướng tiêu dùng xanh buộc tiêu chuẩn an toàn ngày càng cao.

Nói cách khác, “nghèo đều” không chỉ là vấn đề an sinh, mà là hệ quả của năng suất lao động thấp, liên kết vùng lỏng và mô hình tăng trưởng dựa nhiều vào khai thác lợi thế tự nhiên.

Ở đây xuất hiện một vòng luẩn quẩn, vì thu nhập thấp nên nông hộ khó đầu tư công nghệ và tiêu chuẩn; vì thiếu tiêu chuẩn nên khó tiếp cận thị trường chất lượng cao; vì đầu ra bấp bênh nên lại quay về cách làm cũ, ưu tiên “an toàn ngắn hạn” hơn “đổi mới dài hạn”. Vòng xoáy này khiến thành tựu giảm nghèo theo hỗ trợ trực tiếp dễ mang tính “cấp cứu”, trong khi năng lực tự vươn lên tăng chậm.

Một chiến lược thoát nghèo phải bắt đầu từ đổi mô hình phát triển

Thoát nghèo bền vững ở ĐBSCL vì vậy phải được đặt trong một chiến lược phát triển vùng, chuyển từ tư duy “tăng sản lượng” sang “tăng giá trị”, từ nông nghiệp thuần túy sang kinh tế nông nghiệp tích hợp đa ngành.

Định hướng này đã được đưa vào chỉ đạo phát triển, phát triển nông nghiệp hàng hóa quy mô lớn, chất lượng cao; kết hợp thương mại, logistics, du lịch sinh thái, công nghiệp chế biến; gắn nông nghiệp với công nghiệp và dịch vụ, nông thôn với đô thị.

Đồng thời, chương trình hành động của Chính phủ triển khai Nghị quyết 13-NQ/TW về phương hướng phát triển kinh tế-xã hội và bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng ĐBSCL đến 2030, tầm nhìn 2045 đã đặt trọng tâm vào hoàn thiện thể chế, thúc đẩy liên kết vùng và phát triển hạ tầng.

Đây là nền để giải “nghèo đều”, không chỉ tăng thu nhập cho từng hộ, mà mở cơ hội tiếp cận dịch vụ công, việc làm phi nông nghiệp, giáo dục nghề và y tế cơ sở.

Một mấu chốt khác là tạo không gian phát triển cho kinh tế tư nhân, đặc biệt doanh nghiệp nhỏ và vừa, hợp tác xã kiểu mới, hộ kinh doanh nông thôn và các doanh nghiệp chế biến - logistics. Nghị quyết 68-NQ/TW của Bộ Chính trị ngày 4/5/2025 về phát triển kinh tế tư nhân nêu mục tiêu đưa khu vực này trở thành động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.

Với ĐBSCL, tinh thần của nghị quyết có thể chuyển thành chính sách cụ thể, giảm chi phí gia nhập thị trường, minh bạch hóa thủ tục đất đai - đầu tư, hỗ trợ đổi mới công nghệ chế biến, mở kênh tín dụng cho doanh nghiệp nông thôn và khởi nghiệp trong nông nghiệp số.

Điều quan trọng là vì giảm nghèo đa chiều không thể dựa mãi vào trợ cấp, cần phải có việc làm và thị trường. Doanh nghiệp là nơi tạo việc làm phi nông nghiệp, kéo lao động khỏi “bẫy năng suất thấp” của nông nghiệp nhỏ lẻ.

Khi có nhiều “điểm hút” việc làm tại chỗ - chế biến nông sản, kho lạnh, đóng gói, dịch vụ thương mại, du lịch nông nghiệp - thì thu nhập hộ dân có thể đa dạng hóa, giảm phụ thuộc vào một mùa vụ.

Đầu tư công phải trúng “điểm nghẽn”

Giảm nghèo đa chiều muốn đi vào chiều sâu không thể thiếu đầu tư công có trọng tâm như hạ tầng giao thông liên vùng, cảng - logistics, hạ tầng số, trường nghề, y tế cơ sở, nước sạch nông thôn, nhà ở an toàn. Đây là những khoản đầu tư không chỉ giúp “thoát nghèo” mà giúp “không rơi lại vào nghèo” khi gặp cú sốc.

Ở cấp Nhà nước, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt Quyết định 90/QĐ-TTg về Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững giai đoạn 2021 - 2025, tạo khung nguồn lực và nhóm dự án hỗ trợ các dịch vụ xã hội cơ bản, sinh kế và phát triển hạ tầng thiết yếu. Tuy nhiên, với ĐBSCL, hiệu quả của chương trình sẽ phụ thuộc nhiều vào “điểm đặt”, ưu tiên các công trình giảm rủi ro khí hậu và các hạng mục giúp kéo dài chuỗi giá trị.

Cần một cơ chế điều phối hiệu quả

Điều khiến ĐBSCL khó bứt lên không chỉ là thiếu vốn, mà là bài toán điều phối. Nước mặn không theo ranh giới tỉnh; dòng hàng hóa cũng không theo ranh giới tỉnh. Vì vậy, giải pháp giảm nghèo bền vững phải chạy trên logic vùng, quy hoạch vùng nguyên liệu, chuẩn hóa tiêu chuẩn, chia sẻ dữ liệu thị trường, phối hợp đầu tư hạ tầng kết nối.

Những nội dung này đã được nhấn mạnh trong chương trình hành động thực hiện Nghị quyết 13-NQ/TW, coi liên kết vùng và hoàn thiện thể chế là nhóm nhiệm vụ trọng yếu.

ĐBSCL đã thành công ở “năng lực sản xuất”, nhưng cần nâng lên “năng lực tạo giá trị” và “năng lực chống chịu”. Khi giá trị gia tăng được giữ lại nhiều hơn tại vùng, khi việc làm phi nông nghiệp được tạo thêm, khi dịch vụ y tế - giáo dục - nước sạch được củng cố, khi hạ tầng và điều phối vùng trở nên thông suốt, “nghèo đều” sẽ không còn là định mệnh.

Vựa lúa của quốc gia khi đó không chỉ giàu về sản lượng, mà giàu về chất lượng sống - tức là giàu theo nghĩa phát triển bao trùm./.

VH