Phát triển mô hình trồng chè giống mới VN15 chất lượng cao
Mô hình trồng chè giống mới VN15 tại xã Đồng Hỷ sau thời gian triển khai cho thấy cây sinh trưởng tốt, tỷ lệ sống cao, bước đầu khẳng định ưu thế về năng suất, chất lượng và khả năng thâm canh bền vững. Kết quả này tạo cơ sở để địa phương nhân rộng diện tích chè chất lượng cao, hình thành vùng sản xuất tập trung gắn với liên kết tiêu thụ, góp phần nâng thu nhập và hoàn thành tiêu chí tổ chức sản xuất trong xây dựng nông thôn mới nâng cao.

Mô hình sử dụng giống chè VN15 - giống chè tiến bộ kỹ thuật do Viện Khoa học Kỹ thuật Nông lâm nghiệp Miền núi phía Bắc chọn tạo.
Giống VN15 có nhiều ưu điểm nổi bật như tán gọn, búp non mập, nhiều lông tơ trắng, mật độ chồi cao, chu kỳ hái ngắn; khả năng chống chịu khá với điều kiện bất lợi và một số sâu bệnh phổ biến trên cây chè.
Năng suất búp tươi đạt từ 13-15 tấn/ha/năm, có thể lên đến 18 tấn/ha/năm khi thâm canh tốt. Chất lượng búp cho nước chè xanh sáng, hương thơm nhẹ, phù hợp chế biến nhiều dòng sản phẩm như chè xanh, chè ô long và chè đen. Những đặc tính này cho thấy VN15 phù hợp với định hướng phát triển vùng chè hàng hóa chất lượng cao của tỉnh.
Trong quá trình triển khai, cơ quan khuyến nông tổ chức các lớp tập huấn kỹ thuật trồng và chăm sóc chè giống mới cho nông dân trong và ngoài mô hình.
Nội dung tập huấn tập trung vào đặc tính sinh học của VN15, kỹ thuật trồng đúng mật độ, chăm sóc theo từng giai đoạn, sử dụng phân bón hữu cơ vi sinh, quản lý sâu bệnh theo hướng bền vững.
Thông qua đó, người dân không chỉ nắm chắc quy trình kỹ thuật mà còn thay đổi tư duy sản xuất, đó là làm chè theo tiêu chuẩn, giảm hóa chất, hướng đến sản phẩm an toàn và có khả năng truy xuất nguồn gốc. Đây là yếu tố quan trọng giúp nông dân nâng cao năng lực, từng bước trở thành chủ thể sản xuất hiện đại trong nông thôn mới.
Đồng thời, các hộ tham gia mô hình được hỗ trợ phần lớn giá trị giống và phân bón hữu cơ vi sinh. Việc cấp phát vật tư được tổ chức công khai, minh bạch, có sự giám sát của chính quyền và đại diện người dân.
Cách làm này giúp giảm chi phí đầu tư ban đầu, tạo động lực cho nông hộ mạnh dạn cải tạo nương chè, chuyển sang giống mới có năng suất và chất lượng cao hơn. Đây cũng là cơ chế hỗ trợ đúng tinh thần nông thôn mới: Nhà nước đồng hành, người dân chủ động đầu tư và hưởng lợi từ hiệu quả sản xuất.
Trong suốt quá trình thực hiện, cán bộ kỹ thuật thường xuyên bám sát cơ sở, hướng dẫn, kiểm tra và đôn đốc các hộ làm đúng quy trình, bảo đảm tiến độ và chất lượng mô hình.
Kết quả cho thấy các diện tích chè VN15 sinh trưởng tốt, tỷ lệ sống cao, nương chè phát triển đồng đều, thể hiện rõ ưu thế so với giống chè truyền thống. Tán gọn giúp dễ chăm sóc, búp ra đều và tập trung tạo thuận lợi cho thu hái, hứa hẹn tiết kiệm công lao động và nâng hiệu quả kinh tế cho nông hộ.
Nhiều chuyên gia cũng cho rằng, việc nhân rộng VN15 cần gắn với tổ chức sản xuất theo nhóm hộ, tổ hợp tác hoặc hợp tác xã, nhằm thống nhất quy trình canh tác và quản lý chất lượng đồng đều. Khi có vùng nguyên liệu tập trung, địa phương sẽ thuận lợi hơn trong liên kết với doanh nghiệp chế biến, tiêu thụ, phát triển thương hiệu và tham gia chương trình OCOP.
Đây là hướng đi giúp cây chè Đồng Hỷ không chỉ “được mùa” mà còn “được giá”, đóng góp trực tiếp vào tiêu chí thu nhập và tổ chức sản xuất trong xây dựng nông thôn mới nâng cao.
Từ những kết quả bước đầu, mô hình trồng chè VN15 được đánh giá là phù hợp điều kiện địa phương và có khả năng phát triển bền vững.
Việc tiếp tục mở rộng diện tích giống mới, kết hợp canh tác hữu cơ, quản lý sâu bệnh sinh học và liên kết tiêu thụ theo chuỗi giá trị sẽ là nền tảng quan trọng để xã Đồng Hỷ hình thành vùng chè chất lượng cao, nâng sức cạnh tranh cho sản phẩm chè Thái Nguyên, đồng thời tạo sinh kế ổn định, lâu dài cho người dân nông thôn./.