Giảm nghèo bền vững từ sinh kế xanh và liên kết chuỗi giá trị
Nếu y tế, giáo dục và tín dụng chính sách được xem là những “trụ cột an sinh” giúp người nghèo vượt qua khó khăn trước mắt, thì xây dựng sinh kế bền vững chính là “chìa khóa lâu dài” để thoát nghèo một cách thực chất và bền vững.
Thực tiễn giai đoạn 2021 - 2025 cho thấy, hàng chục nghìn dự án hỗ trợ sản xuất, mô hình liên kết chuỗi giá trị và chương trình đào tạo nghề đã mở ra cơ hội sinh kế ổn định cho hộ nghèo, cận nghèo, hướng tới phát triển xanh, phù hợp với lợi thế từng vùng, từng địa phương.
Từ hỗ trợ an sinh đến tạo sinh kế lâu dài
Trong nhiều năm, chính sách giảm nghèo của Việt Nam đã có bước chuyển quan trọng, từ hỗ trợ đơn thuần sang tiếp cận đa chiều, lấy người nghèo làm trung tâm và coi sinh kế là nền tảng cốt lõi. Thay vì chỉ “trao con cá”, các chương trình, dự án đã tập trung “trao cần câu”, giúp hộ nghèo, cận nghèo có điều kiện tự tổ chức sản xuất, tham gia thị trường và từng bước nâng cao năng lực tự chủ.
Theo Bộ Nông nghiệp và Môi trường, trong giai đoạn 2021 - 2025, cả nước đã triển khai hơn 10.587 dự án hỗ trợ phát triển sản xuất cho hộ nghèo, hộ cận nghèo và đồng bào dân tộc thiểu số, với trên 320.000 hộ được hưởng lợi trực tiếp. Các hình thức hỗ trợ được triển khai đa dạng, từ cung cấp giống cây trồng, vật nuôi, phân bón, công cụ sản xuất, đến hướng dẫn kỹ thuật, chuyển giao tiến bộ khoa học - công nghệ. Đây được xem là “điểm tựa” ban đầu quan trọng, giúp người nghèo mạnh dạn đầu tư sản xuất, từng bước cải thiện thu nhập.

Trên khắp các vùng miền, nhiều mô hình sinh kế tuy quy mô chưa lớn nhưng đã mang lại hiệu quả rõ rệt, phù hợp với điều kiện tự nhiên và tập quán sản xuất của người dân. Tại Sơn La, mô hình trồng cây ăn quả như xoài, nhãn, mận hậu đã giúp người dân có nguồn thu ổn định, từng bước hình thành vùng sản xuất hàng hóa tập trung. Ở Gia Lai, mô hình nuôi bò sinh sản không chỉ tạo sinh kế bền vững, mà còn giúp đồng bào dân tộc thiểu số có tích lũy, nâng cao khả năng tái đầu tư sản xuất.
Tại Hà Giang, mô hình nuôi ong lấy mật gắn với bảo tồn hệ sinh thái đang trở thành hướng đi hiệu quả. Người dân vừa có thêm thu nhập từ sản phẩm mật ong, vừa nâng cao ý thức bảo vệ môi trường, giữ gìn tài nguyên rừng. Điểm chung của các mô hình này là không chỉ giải quyết sinh kế trước mắt, mà còn đặt nền móng cho phát triển lâu dài, gắn sản xuất với bảo vệ môi trường và khai thác bền vững tài nguyên thiên nhiên.

Liên kết chuỗi giá trị - Bước đi dài hạn cho giảm nghèo
Bên cạnh hỗ trợ sản xuất đơn lẻ, việc tổ chức sản xuất theo chuỗi giá trị được xác định là hướng đi bền vững, giúp hộ nghèo tham gia sâu hơn vào thị trường. Trong giai đoạn 2021 - 2025, hơn 1.200 mô hình liên kết sản xuất theo chuỗi giá trị đã được hình thành tại nhiều địa phương, từng bước đưa nông sản vùng khó khăn tiếp cận thị trường trong và ngoài nước.
Tiêu biểu có thể kể đến mô hình liên kết trồng lúa chất lượng cao tại Đồng Tháp, giúp hơn 2.000 hộ nghèo tăng thu nhập gấp 1,5 lần so với trước đây. Tại Quảng Trị, chuỗi trồng, chế biến và xuất khẩu chuối đã tạo việc làm ổn định cho khoảng 800 lao động nghèo. Ở Cà Mau, mô hình tôm - cá - lúa không chỉ nâng cao giá trị sản xuất mà còn thích ứng hiệu quả với biến đổi khí hậu, góp phần bảo đảm sinh kế bền vững cho người dân.
Thông qua các chuỗi liên kết, hộ nghèo không còn “sản xuất để đủ ăn”, mà từng bước tham gia thị trường, nâng cao giá trị sản phẩm và tăng sức cạnh tranh.
Trao kỹ năng, tạo việc làm bền vững cho lao động nghèo
Song hành với hỗ trợ sản xuất, đào tạo nghề được xác định là giải pháp căn cơ, lâu dài trong giảm nghèo bền vững. Trong giai đoạn 2021 - 2025, hơn 734.000 lượt cán bộ và lao động nghèo đã được tập huấn kỹ thuật, đào tạo nghề; tỷ lệ lao động thuộc hộ nghèo có việc làm bền vững tăng thêm 12% so với giai đoạn 2016 - 2020.
Đáng chú ý, nhiều ngành nghề mới đã mở ra hướng sinh kế phù hợp với xu thế phát triển và nhu cầu thị trường, như du lịch cộng đồng, dệt thổ cẩm, chế biến nông sản, dịch vụ hậu cần nông nghiệp. Đặc biệt tại các vùng đồng bào dân tộc thiểu số, đào tạo nghề gắn với bản sắc văn hóa và lợi thế địa phương đã giúp người nghèo không chỉ có việc làm mà còn tự tin khởi nghiệp, tham gia hợp tác xã và các chuỗi giá trị sản xuất.
Sinh kế gắn với OCOP và du lịch nông thôn
Một điểm nhấn quan trọng khác là sự gắn kết giữa sinh kế hộ nghèo với Chương trình “Mỗi xã một sản phẩm” (OCOP). Hiện nay, gần 2.000 sản phẩm OCOP có sự tham gia trực tiếp của hộ nghèo và cận nghèo. Nhiều mô hình tiêu biểu đã khẳng định hiệu quả, như sản xuất chè Shan tuyết ở Hà Giang với sản phẩm OCOP đạt 4 sao; du lịch cộng đồng ở Sa Pa, Mộc Châu, Mai Châu, Quảng Nam… vừa bảo tồn bản sắc văn hóa, vừa tạo thêm nguồn thu nhập ổn định cho người dân.
Bên cạnh đó, các sản phẩm thổ cẩm, dược liệu, ẩm thực truyền thống khi được chuẩn hóa và phát triển thành sản phẩm OCOP đã giúp người nghèo tham gia sâu hơn vào chuỗi giá trị, từng bước nâng cao vị thế trên thị trường.
Hướng tới sinh kế xanh và bền vững
Sinh kế bền vững không chỉ dừng lại ở việc tạo thu nhập, mà còn phải gắn với mục tiêu phát triển xanh, bảo vệ môi trường và thích ứng với biến đổi khí hậu. Thời gian tới, các chương trình giảm nghèo cần tiếp tục nhân rộng các mô hình kinh tế tuần hoàn, tận dụng phụ phẩm nông nghiệp; phát triển sinh kế gắn với năng lượng tái tạo, trồng rừng gỗ lớn, dược liệu; đồng thời đẩy mạnh chuyển đổi số trong quản lý, sản xuất và tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp của hộ nghèo.
Thực tiễn giai đoạn 2021 - 2025 đã chứng minh, sinh kế xanh chính là chìa khóa giúp hộ nghèo thoát nghèo lâu dài, tránh rơi vào vòng luẩn quẩn “nghèo - tái nghèo”. Những mô hình hỗ trợ sản xuất, liên kết chuỗi giá trị, đào tạo nghề, gắn với OCOP và du lịch nông thôn không chỉ mang lại hiệu quả kinh tế mà còn tạo nền tảng xã hội vững chắc cho phát triển bền vững.
Đây cũng là nền tảng quan trọng để bước sang giai đoạn 2026-2030, khi sinh kế bền vững được gắn chặt hơn với kinh tế xanh, kinh tế số và yêu cầu thích ứng với biến đổi khí hậu, bảo đảm người nghèo không chỉ “đủ sống” mà còn có cơ hội vươn lên, hội nhập với thị trường./.