Nghị quyết số 57-NQ/TW: Thúc đẩy cho doanh nghiệp công nghệ số
Trong bối cảnh chuyển đổi số và hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, Nghị quyết số 57-NQ/TW của Bộ Chính trị về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số (KHCN, ĐMST&CĐS) quốc gia được ví như “luồng gió mới” đối với hệ sinh thái số Việt Nam.

Doanh nghiệp là chủ thể của hệ thống ĐMST
Điểm nhấn quan trọng của Nghị quyết 57-NQ/TW là việc khẳng định vai trò trung tâm, mang tính quyết định của đội ngũ nhà khoa học trong hệ sinh thái ĐMST.
Thực tiễn cho thấy, KHCN, ĐMST&CĐS khó có thể tạo ra bước tiến vượt bậc nếu thiếu lực lượng trí thức chất lượng cao, được làm việc trong môi trường thuận lợi, có cơ chế đãi ngộ phù hợp và được trao quyền tự chủ thực chất.
Song song với đó, Nghị quyết cũng xác định doanh nghiệp là chủ thể của hệ thống ĐMST quốc gia, giữ vai trò then chốt trong việc tiếp nhận, ứng dụng và thương mại hóa kết quả nghiên cứu, biến tri thức khoa học thành sản phẩm cụ thể và giá trị gia tăng cho nền kinh tế.
Một nội dung mới đáng chú ý khác của Nghị quyết 57-NQ/TW là sự thay đổi trong cách nhìn nhận rủi ro nghiên cứu. Theo đó, các nhiệm vụ KHCN nếu không đạt kết quả như kỳ vọng có thể được dừng triển khai mà không đặt nặng trách nhiệm hoàn trả kinh phí, với điều kiện quá trình thực hiện bảo đảm đúng quy trình, trung thực và khách quan.
Thay cho tâm lý né tránh thất bại, Nghị quyết khuyến khích việc công khai các kết quả nghiên cứu chưa thành công như những kinh nghiệm quý, giúp cộng đồng khoa học rút bài học, tránh lặp lại sai sót và sử dụng hiệu quả hơn nguồn lực xã hội.
Cách tiếp cận này được đánh giá là bước “cởi trói” quan trọng cho hoạt động nghiên cứu, góp phần chấm dứt tình trạng chạy theo thủ tục nghiệm thu, đồng thời đặt trọng tâm vào chất lượng, tính sáng tạo và giá trị thực tiễn của kết quả khoa học.
Cởi trói cơ chế, khơi thông nguồn lực sáng tạo
Thực tiễn triển khai trong nhiều năm cho thấy, không ít nhiệm vụ KHCN sử dụng ngân sách nhà nước vẫn phải trải qua hệ thống thủ tục rườm rà, kéo dài từ khâu thẩm định, phê duyệt đến kiểm tra, đánh giá và nghiệm thu theo từng giai đoạn. Các yêu cầu về tài chính, kế toán chiếm dụng đáng kể thời gian và công sức của nhà khoa học, trong khi đầu ra là việc ứng dụng và thương mại hóa kết quả nghiên cứu lại chưa đạt kỳ vọng. Không ít sản phẩm khoa học sau khi hoàn thành chỉ dừng ở hồ sơ nghiệm thu, chưa tìm được “đầu ra” từ doanh nghiệp hay thị trường.
Trước thực trạng đó, Nghị quyết 57 đặt ra yêu cầu đổi mới căn bản cơ chế tài chính cho KHCN, ĐMST&CĐS. Trọng tâm là chuyển mạnh từ phương thức quản lý nặng về kiểm soát đầu vào sang cách tiếp cận lấy kết quả làm thước đo, gắn trách nhiệm với hiệu quả cuối cùng.
Đồng thời, Nghị quyết yêu cầu rà soát, hoàn thiện khung pháp lý, đơn giản hóa thủ tục hành chính, tạo môi trường thông thoáng hơn để các quỹ đầu tư mạo hiểm, quỹ ĐMST và nguồn lực từ doanh nghiệp tham gia sâu rộng vào hoạt động nghiên cứu - phát triển và hệ sinh thái khởi nghiệp sáng tạo.
Bên cạnh cải cách cơ chế, Nghị quyết 57-NQ/TW cũng đặc biệt nhấn mạnh việc phát hiện, đào tạo, thu hút và đãi ngộ thỏa đáng đội ngũ nhân lực KHCN chất lượng cao. Trọng tâm ưu tiên là các lĩnh vực công nghệ then chốt, có ý nghĩa chiến lược như trí tuệ nhân tạo, công nghiệp bán dẫn, an ninh mạng, dữ liệu lớn, công nghệ sinh học…
Đây là nguồn lực vừa khan hiếm vừa mang tính quyết định đối với năng lực cạnh tranh và phát triển bền vững của quốc gia. Khi được trao cơ hội, bảo đảm môi trường làm việc và cơ chế khuyến khích phù hợp, đội ngũ trí thức trong nước và kiều bào trí thức ở nước ngoài sẽ có thêm động lực để gắn bó, cống hiến và đồng hành cùng sự phát triển của đất nước.
Động lực phát triển cho doanh nghiệp công nghệ số
Ở góc nhìn của cộng đồng doanh nghiệp, Nghị quyết số 57-NQ/TW xác định mục tiêu dành khoảng 2% GDP cho hoạt động nghiên cứu và phát triển, trong đó hơn 60% nguồn lực đến từ khu vực xã hội; đồng thời bố trí tối thiểu 3% tổng chi ngân sách nhà nước hằng năm cho KHCN, ĐMST&CĐS, với lộ trình tăng dần phù hợp với yêu cầu phát triển.
Những định hướng và cam kết cụ thể này cho thấy quyết tâm mạnh mẽ của Nhà nước trong việc ưu tiên đầu tư cho tri thức và công nghệ - nền tảng quan trọng để các doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp công nghệ số, yên tâm hoạch định chiến lược dài hạn và mở rộng đầu tư.
Nghị quyết 57-NQ/TW đồng thời đặt ra các đích đến cụ thể cho giai đoạn đến năm 2030, trong đó nổi bật là mục tiêu đưa Việt Nam vào nhóm quốc gia dẫn đầu khu vực về năng lực cạnh tranh số; hoàn thiện phủ sóng 5G trên toàn quốc; triển khai đồng bộ mô hình đô thị thông minh tại các thành phố trực thuộc Trung ương; cũng như thu hút các tập đoàn, tổ chức công nghệ lớn trong và ngoài nước xây dựng trung tâm nghiên cứu, phát triển và sản xuất tại Việt Nam.
Những mục tiêu này kéo theo nhu cầu rất lớn về hạ tầng số, nền tảng số, dịch vụ số và các giải pháp công nghệ thông minh trên hầu hết lĩnh vực của đời sống kinh tế - xã hội. Qua đó, một không gian thị trường rộng mở được hình thành, tạo điều kiện để các doanh nghiệp công nghệ số trong nước tham gia cung cấp sản phẩm, dịch vụ và đảm nhận những “đơn hàng nhiệm vụ” có quy mô ngày càng lớn.
Nghị quyết 57-NQ/TW được xem là cơ hội để doanh nghiệp Việt Nam tham gia sâu hơn vào các lĩnh vực công nghệ mới và công nghệ nền tảng như bán dẫn, công nghệ nano, công nghệ lượng tử, Internet vạn vật, trí tuệ nhân tạo, điện toán đám mây, dữ liệu lớn… Thay vì chủ yếu triển khai hay tích hợp các giải pháp nhập khẩu, doanh nghiệp được khuyến khích tiến lên các nấc thang cao hơn trong chuỗi giá trị, đó là tự nghiên cứu, làm chủ khâu thiết kế, phát triển nền tảng cốt lõi và hình thành các sản phẩm “Make in Vietnam” có khả năng cạnh tranh ở thị trường khu vực và quốc tế.
Từ góc nhìn của các hiệp hội nghề nghiệp, việc ưu tiên nguồn lực cho KHCN, ĐMST&CĐS sẽ tạo điều kiện thuận lợi để doanh nghiệp công nghệ số mở rộng cung cấp giải pháp cho nhiều lĩnh vực then chốt như tài chính - ngân hàng, y tế, giáo dục, nông nghiệp, logistics, quản lý đô thị và dịch vụ công. Khi đó, chuyển đổi số không còn dừng ở khẩu hiệu hay phong trào, mà trở thành nhu cầu thực tiễn của từng ngành, từng địa phương và từng cơ quan, qua đó hình thành dòng cầu ổn định, bền vững cho các sản phẩm và dịch vụ số.
Tuy nhiên, để khai thác hiệu quả những cơ hội mà Nghị quyết 57-NQ/TW mang lại, bên cạnh việc sớm cụ thể hóa các định hướng lớn bằng hệ thống pháp luật, chính sách và chương trình hành động đồng bộ, vai trò chủ động của chính doanh nghiệp là yếu tố quyết định. Điều này đòi hỏi doanh nghiệp phải đầu tư bài bản cho hoạt động nghiên cứu - phát triển, chú trọng xây dựng đội ngũ nhân lực chất lượng cao, nâng cao năng lực quản trị, tăng cường bảo hộ sở hữu trí tuệ và từng bước xây dựng thương hiệu công nghệ Việt Nam.
Khi quyết tâm chính trị được lan tỏa trong toàn hệ thống, thể chế được tháo gỡ kịp thời và cộng đồng doanh nghiệp cùng đội ngũ nhà khoa học đồng lòng hành động, Nghị quyết 57-NQ/TW sẽ thực sự trở thành động lực mới, tạo đà để doanh nghiệp công nghệ số Việt Nam bứt phá, đóng góp ngày càng lớn cho mục tiêu phát triển nhanh và bền vững của đất nước dựa trên nền tảng KHCN, ĐMST&CĐS./.