Chuyển đổi số

Tạo đột phá về ứng dụng chuyển đổi số trong công tác kiểm tra, giám sát của Đảng

NMK 16/12/2025 19:29

Chuyển đổi số không còn là xu hướng mà đã trở thành yêu cầu bắt buộc trong mọi lĩnh vực của đời sống chính trị - xã hội. Với ngành Kiểm tra Đảng, đây được xem là một trong những đột phá chiến lược quan trọng nhằm hiện đại hóa phương thức lãnh đạo, quản lý và nâng cao hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát, thi hành kỷ luật Đảng trong nhiệm kỳ mới.

Tổng Bí thư Tô Lâm xem giới thiệu các ứng dụng chuyển đổi số trong các cơ quan Đảng. Ảnh: THỐNG NHẤT/TTXVN
Tổng Bí thư Tô Lâm nghe giới thiệu các ứng dụng chuyển đổi số trong các cơ quan Đảng. (Nguồn: Thống Nhất/TTXVN).

Ngày 29/11/2024, Ban Bí thư ban hành Quyết định số 204-QĐ/TW phê duyệt “Đề án chuyển đổi số trong các cơ quan Đảng”, yêu cầu các cấp ủy và cơ quan đảng từ Trung ương đến địa phương xây dựng kiến trúc tổng thể, quy trình quản trị số và nền tảng dùng chung. Mục tiêu đến năm 2030, các cơ quan đảng phải hoàn thiện hệ thống làm việc số thống nhất, liên thông dữ liệu, đảm bảo an toàn thông tin và quản lý tập trung.

Trong hệ thống đó, công tác kiểm tra, giám sát và thi hành kỷ luật Đảng được xác định là một lĩnh vực ưu tiên hàng đầu - nơi có lượng dữ liệu lớn, tính bảo mật cao và yêu cầu chính xác, minh bạch đặc biệt.

Tiếp đó, Nghị quyết số 57-NQ/TW cũng xác định rõ: Chuyển đổi số là đột phá quan trọng hàng đầu, tạo nền tảng cho phát triển kinh tế - xã hội, đổi mới phương thức lãnh đạo, chỉ đạo, quản trị quốc gia theo hướng dữ liệu và minh bạch. Đây là lần đầu tiên một nghị quyết của Bộ Chính trị đặt chuyển đổi số ngang tầm với khoa học - công nghệ và đổi mới sáng tạo, khẳng định vai trò then chốt của dữ liệu và công nghệ trong quản trị Đảng, Nhà nước và hệ thống chính trị.

Đáng chú ý, từ ngày 20/05/2025, Hệ thống thông tin giám sát, đánh giá việc triển khai Nghị quyết 57-NQ/TW đã chính thức được vận hành. Hệ thống cho phép các cơ quan đảng từ Trung ương đến địa phương theo dõi tiến độ, hiệu quả thực hiện chuyển đổi số theo thời gian thực, tạo nền tảng chỉ đạo, điều hành dựa trên dữ liệu thay vì báo cáo thủ công.

Một trong những chuyển biến rõ nét nhất là thay đổi tư duy quản lý và phương thức làm việc. Ủy ban Kiểm tra các cấp từng bước chuyển từ mô hình thủ công sang mô hình số: Từ xử lý hồ sơ giấy sang “kiểm tra không giấy”, từ lưu trữ vật lý sang số hóa toàn bộ hồ sơ, tài liệu.

Các quy trình nghiệp vụ kiểm tra, giám sát được rà soát, tinh gọn, loại bỏ khâu trung gian, rút ngắn thời gian xử lý, đảm bảo minh bạch, linh hoạt, tiết kiệm nhân lực và chi phí. Nhờ đó, công tác kiểm tra được tiến hành đồng bộ, nhanh hơn và giảm thiểu sai sót trong lưu trữ, thống kê.

Một trong những mục tiêu trọng tâm của chuyển đổi số là xây dựng hệ sinh thái số liên thông từ Trung ương đến cơ sở. Các phần mềm hiện có như quản lý đơn thư, hồ sơ kỷ luật, báo cáo định kỳ, lưu trữ số, quản lý công việc... được tích hợp vào một nền tảng thống nhất.

Việc kết nối, chia sẻ dữ liệu giữa Ủy ban Kiểm tra các cấp với các cơ quan như Ban Tổ chức, Ban Nội chính, Thanh tra, Tư pháp, Bộ, ngành và địa phương giúp hình thành hệ thống phân tích dữ liệu lớn (Big Data). Hệ thống này hỗ trợ phát hiện sớm rủi ro, vi phạm, đồng thời giúp lãnh đạo đưa ra quyết định kịp thời, có cơ sở hơn.

Đặc biệt, Trung tâm điều hành kiểm tra, giám sát trên môi trường số đang được triển khai tại nhiều địa phương. Trung tâm cho phép theo dõi tình hình kiểm tra, giám sát theo thời gian thực, tổng hợp dữ liệu, phân tích xu hướng và tự động cảnh báo những “điểm nóng” cần quan tâm. Qua đó, hoạt động chỉ đạo được linh hoạt, chính xác và sát thực tế hơn.

Cùng với việc đổi mới phương thức làm việc, các cơ quan kiểm tra tập trung rà soát, phân loại, chỉnh lý và số hóa toàn bộ hồ sơ, tài liệu kiểm tra, giám sát và thi hành kỷ luật Đảng. Đây là bước đi nền tảng để chuyển đổi từ “quản lý hồ sơ bằng tay” sang “quản lý hồ sơ điện tử” - vừa bảo đảm tính kế thừa, vừa tránh thất lạc dữ liệu khi thay đổi tổ chức.

Một ví dụ điển hình tại Thành ủy Hải Phòng, nơi 100% hồ sơ kiểm tra, giám sát các nhiệm kỳ 2010-2015, 2015-2020 và trước năm 2010 đã được chỉnh lý, số hóa hoàn chỉnh. Hồ sơ nhiệm kỳ 2020-2025 cũng được cập nhật đầy đủ lên phần mềm ngành kiểm tra, giúp tra cứu, thống kê nhanh chóng và chính xác.

Dù đạt nhiều kết quả tích cực, công tác chuyển đổi số trong ngành kiểm tra vẫn đối mặt không ít thách thức.

Thứ nhất, việc hướng dẫn và phân loại tài liệu mật trong quá trình số hóa còn chưa thống nhất. Một số đơn vị còn lúng túng trong việc xử lý hồ sơ tối mật, tuyệt mật, dẫn đến chậm tiến độ hoặc ngại số hóa.

Thứ hai, hạ tầng kỹ thuật và phần mềm vẫn còn hạn chế. Một số tính năng chưa phù hợp với nghiệp vụ chuyên ngành, xảy ra lỗi cập nhật dữ liệu hoặc mất đồng bộ giữa các cấp.

Thứ ba, thiếu nhân lực chuyên trách về công nghệ thông tin là vấn đề phổ biến. Ở nhiều nơi, nhiệm vụ chuyển đổi số vẫn giao kiêm nhiệm cho cán bộ văn phòng, văn thư, khiến hiệu quả chưa cao và tiến độ chậm.

Thứ tư, một số địa phương chưa xây dựng danh mục hồ sơ số hóa cụ thể, chưa xác định rõ mục đích và cách khai thác dữ liệu sau khi số hóa, dẫn tới tình trạng “số hóa để đó”, chưa phát huy được giá trị dữ liệu.

Để thực sự tạo đột phá trong ứng dụng chuyển đổi số ngành kiểm tra, giám sát, cần triển khai đồng bộ nhiều nhóm giải pháp.

Trước hết, các cấp ủy và Ủy ban Kiểm tra các cấp cần tiếp tục nghiêm túc thực hiện Đề án 204-QĐ/TW, Nghị quyết 57-NQ/TW và Kế hoạch 02-KH/BCĐTW của Ban Chỉ đạo quốc gia về chuyển đổi số. Đồng thời, tăng cường kiểm tra, giám sát việc thực hiện các chuyên đề trọng tâm năm 2025, nhất là các chỉ tiêu về dữ liệu, an toàn thông tin và năng lực số của cán bộ.

Tiếp đó, cần đầu tư đồng bộ hạ tầng công nghệ - từ đường truyền, máy chủ, bảo mật, thiết bị đầu cuối - đảm bảo kết nối ổn định đến tận cấp xã, đặc biệt ở vùng sâu, vùng xa.

Đồng thời, phải đào tạo, bồi dưỡng kỹ năng số cho cán bộ, công chức ngành kiểm tra. Đây không chỉ là kỹ năng sử dụng phần mềm, mà còn là nhận thức về quản trị dữ liệu, phân tích dữ liệu và bảo mật thông tin. Mỗi đơn vị cần bố trí ít nhất một cán bộ chuyên trách hoặc nhóm phụ trách chuyển đổi số, tránh tình trạng giao khoán hoặc kiêm nhiệm.

Về mặt công cụ, các phần mềm và nền tảng số cần được đánh giá, cập nhật định kỳ, đảm bảo thích ứng với thực tiễn, tránh lãng phí đầu tư. Song song đó, nên đẩy mạnh việc chuẩn hóa quy trình số hóa hồ sơ, phân loại theo cấp độ bảo mật để có hướng dẫn thống nhất toàn quốc.

Cuối cùng, cần xây dựng cơ chế khuyến khích, khen thưởng kịp thời đối với các tập thể, cá nhân có sáng kiến hoặc kết quả nổi bật trong chuyển đổi số ngành kiểm tra. Ngược lại, phải có biện pháp xử lý nghiêm các đơn vị trì trệ, né tránh, thực hiện hình thức.

Chuyển đổi số trong công tác kiểm tra, giám sát Đảng không chỉ là việc áp dụng công nghệ, mà là đổi mới toàn diện cách tư duy, cách làm, cách quản trị. Đây là bước đi chiến lược nhằm xây dựng một nền kiểm tra Đảng hiện đại, minh bạch, dựa trên dữ liệu và kỷ luật, góp phần củng cố niềm tin của cán bộ, đảng viên và nhân dân.

Khi dữ liệu trở thành “nguồn lực chiến lược”, mỗi hồ sơ, mỗi báo cáo, mỗi kết quả kiểm tra được số hóa sẽ không chỉ phục vụ quản lý hiện tại, mà còn là nền tảng cho phân tích, dự báo, hoạch định chính sách trong tương lai. Đó chính là tinh thần “chuyển đổi số để phục vụ, để kiểm soát, để đổi mới” - hướng đến Đảng lãnh đạo bằng tri thức số, hành động dựa trên bằng chứng và ra quyết định bằng dữ liệu./.

NMK