Truyền thông

Nhân rộng và phát triển các mô hình sinh kế giảm nghèo

PT 12/12/2025 13:32

Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững giai đoạn 2021-2025 đã tạo chuyển biến rõ rệt ở nhiều địa phương, khi tỷ lệ hộ nghèo duy trì mức giảm 1-1,5%/năm; trong đó vùng đồng bào dân tộc thiểu số giảm trên 3%, các xã nghèo giảm 4-5% mỗi năm. Những con số này phản ánh nỗ lực bền bỉ trong hành trình phát triển các mô hình sinh kế giảm nghèo giúp các lao động nghèo, cận nghèo tìm được việc làm ổn định.

439-202512080957191.jpg

Tính đến cuối năm 2025, cả nước đã triển khai 10.587 mô hình, dự án giảm nghèo. Hơn 205.000 hộ dân tham gia, trong đó có hơn 110.000 hộ nghèo, 63.000 hộ cận nghèo và gần 32.000 hộ mới thoát nghèo. Riêng lĩnh vực nông nghiệp chiếm tỷ trọng lớn với 9.816 mô hình, từ trồng cây ăn quả đạt chuẩn VietGAP, chăn nuôi hữu cơ đến nuôi trồng thủy sản bền vững. Gần 100.000 hộ dân nhờ tham gia mô hình đã thay đổi tập quán sản xuất, nâng năng suất, mở rộng thị trường tiêu thụ và cải thiện thu nhập một cách rõ rệt.

Tác động của các mô hình không chỉ dừng lại ở hiệu quả kinh tế. Ở nhiều vùng, sản xuất nhỏ lẻ được thay thế bằng tư duy làm ăn quy mô lớn, gắn với chuỗi giá trị. Người dân chuyển từ tâm lý "làm đủ ăn" sang khát vọng làm giàu. Đây là bước chuyển căn bản, cho thấy mục tiêu giảm nghèo bền vững đang dần trở thành hiện thực, dựa trên năng lực tự chủ thay vì trông chờ hỗ trợ.

Song song với phát triển sinh kế, hạ tầng thiết yếu tiếp tục được ưu tiên đầu tư. Giai đoạn 2021-2025, Chương trình đã hoàn thành 2.616 công trình hạ tầng, gồm 1.465 công trình giao thông, 265 công trình thủy lợi, 472 công trình giáo dục, 41 công trình y tế, 96 công trình nước sạch, 161 công trình văn hóa, 51 công trình điện và 65 công trình khác. Hơn 2.300 công trình đang hoạt động cũng được duy tu, bảo dưỡng. Những con đường mới mở, trường học được xây mới hay trạm y tế khang trang góp phần nâng chất lượng sống, mở ra thêm cơ hội học tập, việc làm và dịch vụ cho người dân vùng sâu, vùng xa.

Trong hành trình giảm nghèo, "sinh kế" được xem là chìa khóa của sự tự chủ. Đến nay, cả nước đã hình thành hơn 9.300 mô hình sinh kế, vượt xa mục tiêu ban đầu chỉ 1.000 mô hình. Nhiều mô hình kết nối chặt với chuỗi giá trị địa phương, từ sản xuất nông nghiệp, du lịch cộng đồng đến phát triển làng nghề. Gần 6.300 phiên giao dịch việc làm được tổ chức, kết nối ba triệu lao động với 1,1 triệu doanh nghiệp và đơn vị tuyển dụng; giúp hơn 125.000 lao động nghèo, cận nghèo tìm được việc làm ổn định, vượt xa chỉ tiêu của cả giai đoạn

Sinh kế được gắn liền với tập huấn kỹ thuật, xây dựng tổ hợp tác, hợp tác xã, chuyển giao công nghệ và kết nối thị trường tiêu thụ. Những mô hình như nuôi bò sinh sản luân chuyển ở miền núi phía Bắc, trồng rau VietGAP ở Đồng bằng sông Hồng hay phát triển du lịch cộng đồng gắn với chăn nuôi ở Tây Nguyên giúp thu nhập của nhiều hộ tăng gấp 2 - 3 lần, hình thành những "cộng đồng sinh kế" cùng nhau phát triển.

Một điểm nhấn khác của Chương trình là cơ chế điều hành thống nhất, xuyên suốt. Các bộ, ngành khẩn trương ban hành hướng dẫn, phân bổ vốn, kiện toàn Ban Chỉ đạo Trung ương nhằm tránh chồng chéo, nâng cao tính minh bạch và hiệu quả. Hệ thống tín dụng chính sách được mở rộng tạo điều kiện để người dân vay vốn học nghề, đầu tư sản xuất. Nguồn lực xã hội hóa tiếp tục lan tỏa, mang theo tinh thần "lá lành đùm lá rách".

Đáng chú ý, yếu tố giới được lồng ghép xuyên suốt trong các hoạt động giảm nghèo. Hơn 169.000 phụ nữ mang thai, 646.000 bà mẹ có con dưới 5 tuổi và hơn 600.000 trẻ em gái ở vùng nghèo được thụ hưởng các chương trình hỗ trợ. Nhiều lớp đào tạo nghề ưu tiên phụ nữ dân tộc thiểu số giúp họ tự tin hơn khi tìm việc làm, tăng thu nhập và khẳng định vai trò trong gia đình, cộng đồng.

Những kết quả trên cho thấy, giảm nghèo bền vững không chỉ là con số thống kê mà là sự đổi thay trong đời sống người dân. Từ các mô hình sinh kế hiệu quả đến những ngôi nhà mới, từ con đường mở lối tới lớp học… tất cả đang góp phần hiện thực hóa mục tiêu “không để ai bị bỏ lại phía sau”, tạo nền tảng cho một xã hội phát triển hài hòa và bền vững./.

PT