An Giang: Nâng cao chất lượng cuộc sống người dân
Trong những năm gần đây, tỉnh An Giang đã dành nhiều nỗ lực để thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững giai đoạn 2021-2025, hướng đến mục tiêu nâng cao chất lượng cuộc sống của người dân, đặc biệt là các hộ nghèo, cận nghèo và nhóm hộ mới thoát nghèo. Với quyết tâm đó, tỉnh đã huy động sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị, triển khai đồng bộ nhiều giải pháp và bước đầu ghi nhận những kết quả tích cực.
Kết quả bước đầu
Ngay từ khi Chương trình được triển khai, tỉnh An Giang (trước hợp nhất với tỉnh Kiên Giang) đã ban hành đầy đủ các văn bản chỉ đạo, hướng dẫn nhằm tạo hành lang pháp lý thống nhất. Các sở, ngành liên quan cũng xây dựng kế hoạch và hướng dẫn chi tiết theo từng lĩnh vực phụ trách, bảo đảm tính đồng bộ và thống nhất trong thực hiện.
Ban Chỉ đạo các Chương trình MTQG của tỉnh được kiện toàn thường xuyên, hoạt động hiệu quả, đồng thời Tổ giúp việc Ban Chỉ đạo được thành lập để hỗ trợ trực tiếp cho việc điều phối các dự án tại cơ sở.
Tổng nguồn lực trung ương phân bổ cho An Giang trong giai đoạn 2021-2025 là 1.069 tỷ đồng, bao gồm 393 tỷ đồng vốn đầu tư phát triển và 676 tỷ đồng vốn sự nghiệp. Tính đến 30/6/2025, tỉnh đã giải ngân 700 tỷ đồng, trong đó vốn đầu tư phát triển đạt 362 tỷ đồng và vốn sự nghiệp đạt 337 tỷ đồng. Ngoài ra, địa phương đã chủ động cân đối, bố trí thêm gần 120 tỷ đồng từ ngân sách tỉnh để hỗ trợ thực hiện Chương trình.
Tỉnh An Giang (cũ) đã bố trí 79 tỷ đồng vốn đối ứng, trong khi tỉnh Kiên Giang (cũ) bố trí 40 tỷ đồng cho giai đoạn triển khai. Các địa phương trong tỉnh cũng đẩy mạnh lồng ghép nhiều chương trình và dự án khác nhau nhằm bổ sung nguồn lực hoàn thiện hệ thống hạ tầng, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội tại các vùng khó khăn.
Về kết quả giảm nghèo, tỷ lệ hộ nghèo đa chiều của tỉnh vào cuối năm 2024 ở mức 1,27%, dự kiến đến cuối năm 2025 giảm còn 0,91%. Riêng hộ nghèo dân tộc thiểu số dự kiến giảm từ 2,9% năm 2024 xuống còn 1,78% năm 2025. Đáng ghi nhận, các địa bàn đặc biệt khó khăn thuộc vùng bãi ngang ven biển và hải đảo đang trên đà thoát nghèo, dự kiến 3/3 xã trong diện hỗ trợ sẽ không còn thuộc nhóm đặc biệt khó khăn vào cuối năm 2025.
Chương trình MTQG giảm nghèo bền vững cũng góp phần cải thiện khả năng tiếp cận dịch vụ xã hội cơ bản cho người dân vùng khó khăn như y tế, giáo dục, nhà ở, nước sạch, thông tin. Người dân được hỗ trợ phát triển sinh kế, tạo việc làm và nâng cao thu nhập thông qua các mô hình sản xuất, mô hình giảm nghèo phù hợp với điều kiện thực tế từng địa phương.
Những kết quả này đã đóng vai trò quan trọng trong bảo đảm an sinh xã hội, duy trì ổn định chính trị và góp phần phát triển kinh tế bền vững ở các vùng trọng điểm của tỉnh.
Những vướng mắc còn gặp phải
Mặc dù đạt nhiều kết quả tích cực, quá trình triển khai Chương trình MTQG giảm nghèo ở An Giang vẫn đối mặt với hàng loạt thách thức.
Trước hết, hệ thống văn bản hướng dẫn từ Trung ương ban hành chậm và thiếu đồng bộ trong năm đầu của giai đoạn. Một số quy định phải điều chỉnh, bổ sung nhiều lần, hướng dẫn chung chung, chưa cụ thể, gây lúng túng cho địa phương trong việc triển khai. Điều này làm ảnh hưởng đến tiến độ lập hồ sơ, thủ tục và tổ chức các mô hình, dự án tại cấp xã, phường.

Đối với Dự án 2 về đa dạng hóa sinh kế và nhân rộng mô hình giảm nghèo, vẫn còn nhiều hộ dân khó có điều kiện tham gia. Một bộ phận người dân thuộc diện thụ hưởng là người lớn tuổi, thiếu lao động, không có đất sản xuất hoặc không đủ năng lực đối ứng.
Nhiều hộ tuy đăng ký tham gia dự án nhưng lại thiếu tư liệu sản xuất, cơ sở vật chất và không có điều kiện tài chính để đối ứng phần vốn cần thiết, dẫn đến việc triển khai tại một số địa phương còn chậm.
Bên cạnh đó, một số mô hình hỗ trợ sản xuất, đặc biệt là chăn nuôi, không thể triển khai vì vướng quy định về hạn chế chăn nuôi tại một số địa bàn như Rạch Giá, Hà Tiên, Phú Quốc và các khu vực đô thị. Điều này làm thu hẹp lựa chọn mô hình giảm nghèo phù hợp cho người dân.
Công tác đào tạo nghề cũng gặp nhiều bất cập do thiếu văn bản hướng dẫn cụ thể về tiêu chí người lao động có thu nhập thấp khiến việc mở lớp bị trì hoãn. Mặc dù đã đẩy mạnh tuyên truyền nhưng nhu cầu học nghề của người dân thuộc hộ nghèo, cận nghèo và hộ mới thoát nghèo không nhiều, gây khó khăn trong việc tuyển sinh và tổ chức lớp học.
Về hỗ trợ lao động đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng, việc triển khai cũng gặp trở ngại vì số xã đặc biệt khó khăn thuộc vùng bãi ngang ven biển, hải đảo của tỉnh chỉ còn 2 xã. Trong khi đó, tỉnh Kiên Giang (cũ) lại có chính sách hỗ trợ riêng với mức hỗ trợ hấp dẫn hơn so với Chương trình MTQG, khiến người lao động không mặn mà với chính sách hiện hành.
Ngoài ra, đời sống người dân vùng khó khăn có nhiều biến động; nhiều hộ đi làm ăn xa, để trẻ nhỏ cho ông bà chăm sóc. Nhận thức về dinh dưỡng và chăm sóc trẻ chưa cao, ảnh hưởng đến hiệu quả của các hoạt động can thiệp dinh dưỡng trong Chương trình.
Cần giải pháp linh hoạt
Những hạn chế nêu trên cho thấy, việc giảm nghèo bền vững tại An Giang không chỉ phụ thuộc vào sự hỗ trợ của chính sách hay nguồn lực tài chính, mà còn chịu ảnh hưởng lớn từ điều kiện thực tế của từng địa phương, đặc điểm dân cư, cơ sở hạ tầng, cũng như tính đồng bộ của hệ thống văn bản hướng dẫn.
Để Chương trình MTQG giảm nghèo giai đoạn 2021-2025 đạt hiệu quả cao hơn, An Giang cần tiếp tục rà soát, hoàn thiện cơ chế, chính sách; tăng cường hỗ trợ và theo dõi sát sao các nhóm đối tượng khó khăn. Đồng thời, địa phương cần linh hoạt hơn trong lựa chọn mô hình giảm nghèo phù hợp, chú trọng tính khả thi và khả năng nhân rộng.
Việc nâng cao năng lực cho đội ngũ cán bộ cơ sở, đẩy mạnh tuyên truyền và huy động sự tham gia của cộng đồng cũng là những yếu tố quan trọng giúp công tác giảm nghèo bền vững đạt mục tiêu đề ra./.