Chính sách và quản lý

Luật Chuyển giao công nghệ (sửa đổi): Từ kiểm soát sang thúc đẩy thị trường và đổi mới sáng tạo

03/12/2025 19:08

Việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Chuyển giao công nghệ (CGCN) là một trong những nhiệm vụ trọng tâm nhằm hoàn thiện khung pháp lý về khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo (KH,CN&ĐMST) của Việt Nam. Cùng với Luật Công nghệ cao (sửa đổi), Luật CGCN sửa đổi thể hiện quyết tâm của Chính phủ trong việc xây dựng một hành lang pháp lý thông thoáng, tạo động lực mạnh mẽ cho thị trường công nghệ phát triển minh bạch và thực chất.

Trong bối cảnh đất nước đang đẩy mạnh chuyển đổi số và hội nhập quốc tế sâu rộng, dự thảo Luật CGCN (sửa đổi) được xây dựng nhằm đạt bốn mục tiêu chính: Hoàn thiện khung pháp lý; Thúc đẩy thị trường khoa học và công nghệ phát triển minh bạch; Khuyến khích thương mại hóa kết quả nghiên cứu, ĐMST và tăng cường kiểm soát hoạt động chuyển giao công nghệ xuyên biên giới, đồng thời nâng cao năng lực quản lý nhà nước.

bai-2.-sua-luat-cgcn.jpg
Các đại biểu dự Phiên thảo luận Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Chuyển giao công nghệ tại Phiên họp thứ 50 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội. Nguồn: quochoi.vn.

Chuyển đổi tư duy quản lý: Từ tiền kiểm sang hậu kiểm

Trọng tâm sửa đổi Luật CGCN nhằm hình thành thị trường công nghệ một cách thực chất. Để đạt được mục tiêu này, tư duy quản lý nhà nước có sự thay đổi căn bản và mang tính đột phá:

Giảm thủ tục hành chính và thúc đẩy đổi mới: Việc điều chỉnh Luật lần này chuyển từ tư duy kiểm soát sang thúc đẩy đổi mới sáng tạo. Bộ trưởng Bộ KH&CN Nguyễn Mạnh Hùng nhấn mạnh việc giảm thủ tục hành chính bằng cách chuyển từ tiền kiểm sang hậu kiểm. Điều này tạo cơ chế thông thoáng, giúp doanh nghiệp nhanh chóng tiếp nhận, làm chủ và đổi mới công nghệ.

Tăng cường cơ chế hậu kiểm công nghệ: Dù chuyển sang hậu kiểm, Nhà nước vẫn luôn giữ quyền hậu kiểm công nghệ với chế tài mạnh. Mục đích là để ngăn chặn tình trạng nâng khống giá công nghệ, hoặc đưa công nghệ lạc hậu, gây hại môi trường vào Việt Nam.

Luật cũng quy định rõ ràng về phân cấp thẩm định công nghệ cho địa phương. Tuy nhiên, việc phân cấp này phải đi kèm với việc thiết kế bộ tiêu chí thống nhất quốc gia, công bố thông tin về thẩm định công nghệ và Trung ương có quyền giám sát, hậu kiểm và phủ quyết. Điều này đảm bảo tính thống nhất và hiệu quả trong quản lý chất lượng công nghệ được chuyển giao.

Mở rộng phạm vi và đối tượng điều chỉnh: Công nghệ là tri thức và dữ liệu

Dự thảo Luật CGCN (sửa đổi) mở rộng đáng kể phạm vi điều chỉnh để phù hợp với bối cảnh cách mạng công nghiệp 4.0 và yêu cầu phát triển bền vững.

Thay đổi khái niệm về công nghệ

Luật CGCN sửa đổi thay đổi tư duy căn bản, chuyển từ quan niệm công nghệ là máy móc, thiết bị sang coi công nghệ là tri thức, dữ liệu, thuật toán, phần mềm, trí tuệ nhân tạo (AI). Tất cả các đối tượng vô hình này đều được coi là đối tượng chuyển giao như nhau.

Dự thảo bổ sung các đối tượng công nghệ mới, đặc biệt là công nghệ chiến lược và công nghệ xanh. Các đối tượng vô hình mới như thiết kế, thuật toán, mô hình, dữ liệu, AI cũng được bổ sung và có cách tiếp cận mới.

Đa dạng hóa hình thức chuyển giao và cơ chế thử nghiệm

Dự thảo Luật cũng mở rộng các hình thức chuyển giao công nghệ mới. Ngoài quyền về sở hữu và sử dụng, Luật mở rộng thêm các hình thức: Công nghệ phái sinh; Công nghệ đồng phát triển; Chuyển giao công nghệ tạm thời; Chuyển giao theo kết quả; Cho phép sandbox (cơ chế thử nghiệm) về chuyển giao công nghệ.

Việc mở rộng này giúp hoạt động chuyển giao công nghệ trở nên linh hoạt hơn, phù hợp với tốc độ phát triển nhanh của công nghệ hiện đại.

Phát triển thị trường khoa học công nghệ chuyên nghiệp

Để thúc đẩy mạnh mẽ thị trường KHCN, Luật CGCN (sửa đổi) tập trung vào việc khắc phục những điểm yếu hiện tại, đặc biệt là sự thiếu vắng của các tổ chức trung gian.

Tăng cường vai trò của tổ chức trung gian

Luật CGCN quy định thêm về phát triển các tổ chức trung gian như: Môi giới, tư vấn; Đánh giá công nghệ, thẩm định giá; Kết nối cung cầu. Đây là những hoạt động cốt lõi mà Việt Nam còn yếu và việc phát triển các tổ chức này là chìa khóa để thị trường công nghệ vận hành hiệu quả.

Cơ chế tài chính và hỗ trợ thị trường

Dự thảo Luật còn quy định các biện pháp khuyến khích CGCN, phát triển thị trường KHCN thông qua: Tổ chức các sàn giao dịch công nghệ; Hỗ trợ ngân sách cho đổi mới công nghệ; Phát triển thị trường KHCN chuyên nghiệp, tăng cường vai trò của trung tâm ĐMST, trung tâm hỗ trợ khởi nghiệp sáng tạo.

Tạo động lực tài chính - pháp lý

Một chính sách quan trọng là tạo động lực tài chính-pháp lý với cơ chế ưu đãi mạnh mẽ. Luật khuyến khích và hỗ trợ CGCN nội sinh thông qua quyền sở hữu, quyền sử dụng công nghệ và góp vốn bằng công nghệ vào dự án đầu tư. Đặc biệt, dự thảo còn yêu cầu các nhà thầu quốc tế cam kết CGCN và đào tạo nhân lực Việt Nam. Quy định này nhằm bảo đảm rằng hoạt động CGCN sẽ mang lại lợi ích thực chất và lâu dài cho năng lực công nghệ quốc gia.

Mối quan hệ phân vai với Luật Công nghệ cao

Luật CCGCN và Luật Công nghệ cao có mối quan hệ phân vai rõ ràng. Luật Công nghệ cao: Là luật xác định đối tượng (các loại công nghệ và sản phẩm công nghệ cần được ưu tiên phát triển). Luật CGCN: Là luật điều chỉnh hoạt động (chuyển giao, thương mại hóa và quản trị công nghệ, bao gồm cả công nghệ cao).

Việc sửa đổi đồng bộ cả hai Luật nhằm tăng cường năng lực quản lý nhà nước, thực hiện chuyển đổi số toàn diện để giám sát, thống kê, đo lường, công bố công khai hiệu quả hoạt động công nghệ cao và CGCN.

Dự thảo Luật CGCN (sửa đổi) đang được cơ quan soạn thảo nghiên cứu, tiếp thu tối đa các ý kiến đóng góp để hoàn thiện. Khi được thông qua, Luật sẽ trở thành động lực lan tỏa và thương mại hóa nhanh hơn, tạo ra khuôn khổ pháp lý vững chắc, hiện đại để thúc đẩy tự chủ công nghệ và nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia./.