Tạo hành lang pháp lý đặc biệt cho phát triển công nghệ chiến lược và tự chủ công nghệ quốc gia
Trong bối cảnh đất nước đang dốc sức hiện thực hóa mục tiêu phát triển nhanh và bền vững, việc sửa đổi Luật Công nghệ cao (ban hành năm 2008) là một yêu cầu cấp thiết và mang tính chiến lược. Dự thảo Luật Công nghệ cao (sửa đổi) không chỉ nhằm khắc phục những bất cập, chồng chéo với các luật khác đã bộc lộ sau hơn 16 năm triển khai mà còn là bước cụ thể hóa, thể chế hóa tinh thần cốt lõi của Nghị quyết số 57-NQ/TW của Bộ Chính trị về đột phá phát triển khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số.
Mục tiêu cao nhất của việc sửa đổi Luật lần này là tạo ra một khuôn khổ pháp lý hiện đại, minh bạch, ổn định và hấp dẫn đối với các hoạt động đầu tư, sản xuất, kinh doanh trong lĩnh vực công nghệ cao, đặc biệt là để phát triển công nghệ chiến lược. Đây chính là nền tảng để nâng cao năng lực công nghệ nội sinh và hướng tới cạnh tranh toàn cầu.

Thay đổi nhận thức: Công nghệ cao là trụ cột chiến lược và chủ quyền quốc gia
Thay đổi lớn nhất và mang tính đột phá trong dự thảo Luật Công nghệ cao (sửa đổi) chính là sự nâng tầm nhận thức về vai trò của công nghệ cao.
Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ Nguyễn Mạnh Hùng khẳng định, công nghệ cao không chỉ là lĩnh vực ưu đãi đầu tư, mà còn là trụ cột chiến lược về kinh tế, quốc phòng, an ninh, năng lực cạnh tranh và rộng hơn là chủ quyền quốc gia.
Phân loại công nghệ để có chính sách phù hợp
Để thể chế hóa quan điểm này, dự thảo Luật đã đưa ra cách tiếp cận mới bằng việc phân loại rõ các loại công nghệ để có các chính sách phát triển, quản lý phù hợp:
Công nghệ cao: Phục vụ phát triển đất nước.
Công nghệ chiến lược: Là ưu tiên quốc gia, cần cơ chế đặc biệt. Việc đưa khái niệm công nghệ chiến lược vào Luật là một trong bốn điểm trọng tâm của bản sửa đổi. Việt Nam đã công bố danh mục 11 nhóm công nghệ chiến lược mà đất nước phải làm chủ, thể hiện tuyên ngôn về tự chủ, tự cường công nghệ.
Công nghệ lõi: Là năng lực Việt Nam phải tự làm chủ và giữ bằng được.
Xây dựng chương riêng về công nghệ chiến lược
Điểm nổi bật là dự thảo Luật bổ sung một chương riêng về phát triển công nghệ chiến lược. Chương này quy định chi tiết từ các công đoạn nghiên cứu, thử nghiệm, ứng dụng, thương mại hóa, chuyển giao đến thu hút và phát triển nhân lực chất lượng cao.
Đặc biệt, Luật xây dựng các chính sách đặc biệt để thúc đẩy mạnh mẽ tự chủ công nghệ chiến lược, bao gồm: Giao nhiệm vụ trực tiếp; Cơ chế đặc thù trong giải mã, mua bí quyết công nghệ; Thiết lập khu thí nghiệm đặc biệt riêng cho công nghệ chiến lược; Mua sắm đặc biệt công nghệ chiến lược và sản phẩm chiến lược.
Hoàn thiện chính sách và mô hình phát triển hệ sinh thái công nghệ cao
Bên cạnh việc xác định rõ công nghệ chiến lược, dự thảo Luật còn hoàn thiện hệ thống các chính sách ưu đãi, hỗ trợ đầu tư và bổ sung các mô hình phát triển hệ sinh thái công nghệ cao.
Chính sách ưu đãi gắn với nội địa hóa và hoạt động nghiên cứu phát triển
Dự thảo Luật thiết kế lại hệ thống các chính sách và đối tượng hưởng chính sách ưu tiên, ưu đãi, hỗ trợ đầu tư. Các cơ chế, chính sách ưu đãi đối với công nghệ cao tại luật hiện hành sẽ tiếp tục được duy trì và tăng thêm các ưu đãi. Việc tăng ưu đãi được gắn liền với yêu cầu:
Tăng tỷ lệ nội địa hóa: Bổ sung các chính sách ưu đãi nhằm tăng tỷ lệ nội địa hóa, tăng hàm lượng công nghệ của Việt Nam.
Chuyển từ gia công sang sáng tạo: Thúc đẩy chuyển từ gia công, lắp ráp sang nghiên cứu, thiết kế và sáng tạo sản phẩm công nghệ cao tại Việt Nam.
Thu hút FDI chất lượng: Tăng ưu đãi nếu nhà đầu tư nước ngoài (FDI) tăng tỷ lệ nội địa hóa chuyển giao công nghệ có hoạt động nghiên cứu phát triển (R&D) tại Việt Nam.
Quy định này nhằm giải quyết tình trạng hiện tại, khi doanh nghiệp nước ngoài đầu tư nhiều nhưng hàm lượng công nghệ còn thấp, chủ yếu tập trung vào khâu gia công, cấp phép và chưa có chính sách đủ mạnh để thúc đẩy doanh nghiệp Việt tham gia sâu vào chuỗi cung ứng.
Bổ sung mô hình Khu đô thị công nghệ cao
Nhận thấy hiệu quả hoạt động của các khu công nghệ cao còn hạn chế, ví dụ như Khu công nghệ cao Hòa Lạc gặp trở ngại về hạ tầng giao thông, dự thảo Luật bổ sung quy định về phát triển khu đô thị công nghệ cao.
Khu đô thị công nghệ cao là nơi có khu công nghệ cao làm hạt nhân, được quy hoạch đồng bộ về hạ tầng kỹ thuật, hạ tầng xã hội và cơ chế quản trị hiện đại. Mục tiêu là đảm bảo điều kiện sống, làm việc và sáng tạo hiện đại, bền vững, qua đó phát triển toàn diện hệ sinh thái công nghệ cao.
Yêu cầu chuyển đổi số toàn diện và nâng cao quản lý nhà nước
Dự thảo Luật cũng bổ sung và hoàn thiện các quy định quản lý nhà nước về công nghệ cao, cơ chế quản lý, kiểm tra, giám sát và đánh giá hiệu quả. Đặc biệt, Luật yêu cầu chuyển đổi số toàn diện hoạt động công nghệ cao, bao gồm số hóa dữ liệu, hạ tầng, chính sách liên quan để vận hành trên nền tảng số và hệ thống quản trị thông minh.
Việc sửa đổi hai luật (Luật Công nghệ cao và Luật Chuyển giao công nghệ) đồng bộ nhằm tăng cường năng lực quản lý nhà nước, thực hiện chuyển đổi số toàn diện để giám sát, thống kê, đo lường, công bố công khai hiệu quả hoạt động công nghệ cao và chuyển giao công nghệ.
Giải quyết những bất cập và hướng tới tương lai
Luật Công nghệ cao (sửa đổi) còn tập trung vào việc giải quyết những vấn đề còn tồn đọng như:
Chính sách nhân lực: Cần có chính sách vượt trội về nhân lực, trọng dụng chuyên gia, nhà khoa học, người Việt Nam ở nước ngoài và coi đây là tài sản quốc gia.
Khái niệm và tiêu chí: Cần hoàn thiện khái niệm và tiêu chí về công nghệ cao, làm rõ khái niệm sản phẩm công nghệ cao, quy định rõ tỷ lệ giá trị sản phẩm công nghệ cao và có thêm cơ chế để công nhận quốc tế để xuất khẩu, cạnh tranh thương mại.
Cơ chế vận hành: Cần làm rõ các công cụ chính sách, nguồn lực, cơ chế phối hợp để đảm bảo tính khả thi và hiệu quả, thu hút nguồn lực đầu tư ngoài ngân sách nhà nước. Cần nghiên cứu quy định bố trí tỷ lệ chi ngân sách Nhà nước cho hoạt động nghiên cứu và phát triển công nghệ chiến lược, tránh chồng chéo với Luật Luật Khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo.
Phó Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Thị Thanh đánh giá, dự thảo Luật đã xác định danh mục công nghệ chiến lược mang tính đột phá, nền tảng cho quốc phòng an ninh và khơi dậy vai trò của khu vực tư nhân, xây dựng được hệ sinh thái công nghệ cao toàn diện, gắn kết được khu vực công và tư, trong nước và quốc tế.
Dự kiến, Dự thảo Luật Công nghệ cao (sửa đổi) sẽ được xem xét thông qua tại Kỳ họp thứ 10, Quốc hội khóa XV. Việc thông qua Luật sẽ tạo ra một khuôn khổ pháp lý vững chắc, trở thành động lực quan trọng thúc đẩy tự chủ công nghệ, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia, đưa công nghệ cao, công nghệ chiến lược trở thành một trong những động lực chính để phát triển đất nước./.