Khoa học - Công nghệ

Khả năng suy nghĩ độc lập của con người có bị “thoái hóa” trong thời đại AI? (Phần 3)

Trần Chi 13/11/2025 07:40

Khi AI được dùng như lối tắt thay vì công cụ, học sinh đang trở thành những “thợ làm nến” khéo léo nhưng thiếu tư duy phản biện trong kỷ nguyên cần những “bóng đèn sáng tạo”.

Khi con người trở thành “thợ làm nến” trong kỷ nguyên bóng đèn

Michael Gerlich, Giám đốc Trung tâm Dự báo Chiến lược Doanh nghiệp và Phát triển Bền vững tại Trường Kinh doanh SBS Thụy Sĩ, đã thực hiện nghiên cứu với 666 người ở nhiều độ tuổi khác nhau và phát hiện: những người sử dụng AI thường xuyên có điểm tư duy phản biện thấp hơn.

Ông nhận thấy, chất lượng thảo luận trong lớp học đang giảm sút. Có lần, ông giao cho sinh viên một bài tập nhóm, nhưng thay vì trao đổi với nhau, họ chỉ im lặng và… tra cứu trên laptop.

Khi trao đổi với các giảng viên khác, ông phát hiện họ cũng gặp hiện tượng tương tự.

bong-den-va-nen.png
Nguồn: Freepik.

Giống như nhiều nhà nghiên cứu khác, Gerlich tin rằng, nếu được sử dụng đúng cách, trí tuệ nhân tạo (AI) có thể khiến con người thông minh hơn và sáng tạo hơn, nhưng cách mà hầu hết mọi người đang sử dụng lại chỉ tạo ra những sản phẩm khô khan, thiếu sức tưởng tượng và còn sai lệch về mặt thực tế.

Một mối lo ngại là “hiệu ứng mỏ neo” (anchoring effect). Khi đặt câu hỏi cho một công cụ AI tạo sinh, câu trả lời mà công cụ AI đưa ra sẽ định hướng bộ não theo một lối suy nghĩ nhất định, khiến người hỏi ít có xu hướng xem xét các hướng tiếp cận khác.

Ông nói: Ví dụ, AI có thể giúp bạn cải tiến cây nến sáng hơn bao giờ hết, cháy lâu hơn, rẻ hơn và lung linh hơn. Nhưng AI sẽ không bao giờ phát minh ra bóng đèn. Đó là bởi để đi từ cây nến đến bóng đèn cần một con người có khả năng tư duy phản biện, có thể tiếp cận vấn đề theo cách hỗn loạn, phi cấu trúc và khó đoán định.

Ở nhiều nơi, khi các công ty triển khai những công cụ như chatbot Copilot mà không cung cấp đào tạo AI bài bản, họ đang vô tình tạo ra những “thợ làm nến khá ổn” trong một thế giới đang cần “những bóng đèn hiệu suất cao”.

“Cỗ máy viết luận” trong trường học

Những người trưởng thành dùng AI như một lối tắt ít ra đã từng trải qua quá trình giáo dục trước khi việc để máy tính làm bài hộ trở nên khả thi.

Một khảo sát tại Anh gần đây cho thấy 92% sinh viên đại học sử dụng AI và khoảng 20% trong số đó dùng AI để viết toàn bộ hoặc một phần bài tập của mình. Câu hỏi đặt ra: Họ thực sự học được bao nhiêu?

co-may-viet-luan.png
Nguồn: Cybernews.

Lo ngại về khoảng cách giữa các nhà hoạch định chính sách nhìn nhận công nghệ trong giáo dục và thực tế mà giáo viên đang đối mặt, năm 2017, Matt Miles, giáo viên tâm lý học tại một trường trung học ở Virginia (Mỹ) cùng đồng nghiệp Joe Clement dạy kinh tế và chính phủ ở cùng trường đã xuất bản cuốn Screen Schooled (tạm dịch: Trường học qua màn hình), lập luận rằng, việc lạm dụng công nghệ đang khiến trẻ em ngày càng kém thông minh.

Kể từ đó, điện thoại thông minh đã bị cấm trong lớp học của họ, nhưng học sinh vẫn sử dụng laptop để học.

Miles kể lại: Có một học sinh từng nói: Nếu thầy thấy em đang dùng điện thoại, thì chắc chắn 0% là em đang làm việc gì có ích. Còn nếu em dùng laptop, thì khả năng đó là 50%.

Trước đại dịch, nhiều giáo viên hoàn toàn có lý do để hoài nghi về lợi ích của việc đưa thêm công nghệ vào lớp học, theo nhận định của Faith Boninger, nhà nghiên cứu tại Đại học Colorado. Nhưng khi các đợt phong tỏa buộc trường học phải chuyển sang hình thức trực tuyến, một “chuẩn mực mới” đã hình thành và các nền tảng Edtech (Education Technology) như Google Workspace for Education, Kahoot!, Zearn trở nên phổ biến khắp nơi.

Sự xuất hiện của AI tạo sinh mang đến những hứa hẹn mới rằng, có thể cách mạng hóa giáo dục, mở ra thời đại học tập cá nhân hóa cho từng học sinh, đồng thời giảm tải cho giáo viên.

Tuy nhiên, gần như toàn bộ các nghiên cứu cho thấy, lợi ích của công nghệ trong lớp học đều được tài trợ bởi chính ngành công nghiệp Edtech, trong khi nghiên cứu toàn cầu của OECD phát hiện: Càng dùng công nghệ nhiều trong trường học, kết quả học tập càng tệ.

GS. Wayne Holmes, chuyên gia về nghiên cứu phản biện AI và giáo dục tại University College London, nói: Thực tế là chúng ta đang "thí nghiệm" trên trẻ em. Thông thường, chúng ta mong thuốc được kiểm nghiệm kỹ, kê toa bởi chuyên gia. Thế nhưng với công nghệ giáo dục - thứ được cho là có lợi cho bộ não đang phát triển của trẻ, lại không cần bất kỳ kiểm chứng nào.

Điều khiến Miles và Clement lo ngại không chỉ là việc học sinh luôn bị phân tâm bởi các thiết bị, mà còn vì chúng không phát triển được tư duy phản biện và nền tảng tri thức sâu khi mọi câu trả lời đều chỉ cách một cú nhấp chuột.

Trước đây, khi Clement hỏi học sinh: Theo các em, Mỹ đứng thứ mấy trên thế giới về GDP bình quân đầu người?, ông sẽ hướng dẫn học sinh cùng phân tích để tìm ra lời giải. Còn giờ đây, có học sinh đã Google câu trả lời trước khi ông kịp nói hết câu hỏi. Học sinh cũng thường xuyên dùng ChatGPT và thậm chí tỏ ra khó chịu nếu không được phát bản mềm của đề bài, vì như vậy chúng phải tự gõ thay vì copy - paste vào AI hoặc ô tìm kiếm Google.

Clement nói: Biết cách tra Google và đưa ra câu trả lời đúng không phải là tri thức. Có tri thức là điều cực kỳ quan trọng bởi khi nghe điều gì đó sai hoặc giả dối, bạn sẽ nhớ lại những kiến thức đã có để kiểm chứng.

Internet vốn đã tràn ngập thuyết âm mưu và thông tin sai lệch, và điều này sẽ trở nên tệ hơn khi AI “ảo giác” và tạo ra các nội dung giả nhưng thuyết phục. Clement lo rằng, thế hệ trẻ không đủ khả năng nhận diện và vượt qua điều này.

Khi cỗ máy vụng về dạy ta cách nghĩ

Trong đại dịch, Miles kể, ông thấy con trai nhỏ của mình bật khóc trước chiếc máy tính bảng do trường cấp. Cậu bé đang làm bài toán trực tuyến, được giao nhiệm vụ tạo ra số sáu bằng cách dùng ít thẻ điểm nhất trong ba loại: một, ba và năm.

Cậu liên tục đề xuất hai thẻ ba, nhưng máy tính báo sai. Miles thử một và năm và lần này máy chấp nhận.

kha-nang-tu-duy-doc-lap.png
Nguồn: LinkeIn.

Ông nói: Đó chính là cơn ác mộng của AI phi nhân tính. Học sinh thường tiếp cận vấn đề theo những cách bất ngờ và thú vị, nhưng máy móc lại không thể xử lý sự khác biệt đó.

Điều này lại dẫn đến một suy nghĩ khác rằng: có lẽ bình minh của “kỷ nguyên ngu dốt mới” không bắt đầu khi con người phục tùng những cỗ máy siêu thông minh, mà là khi con người giao quyền cho những cỗ máy ngu ngốc.

Cuối cùng, công cụ hay công nghệ ở mỗi thời đại đều là tấm gương phản chiếu mức độ trưởng thành của trí tuệ con người. Nếu AI là bài kiểm tra tiếp theo của nhân loại, thì câu trả lời không nằm ở việc con người để máy móc thông minh đến đâu, mà là con người còn dám suy nghĩ độc lập đến mức nào./.

Trần Chi