Tiêu chuẩn đo lường chất lượng

Định hình chiến lược phát triển bền vững cho ngành Halal

Nguyễn Nam - Phong Vũ 11/11/2025 19:40

Trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng, việc mở rộng thị trường xuất khẩu sang các quốc gia Hồi giáo được xem là một trong những hướng đi chiến lược cho nền kinh tế Việt Nam.

Thị trường Halal toàn cầu với quy mô hàng nghìn tỷ USD và tốc độ tăng trưởng ổn định không chỉ mang lại cơ hội thương mại to lớn mà còn mở ra không gian phát triển mới cho nhiều ngành hàng Việt Nam, từ nông sản, thực phẩm, mỹ phẩm cho đến du lịch và dịch vụ. Tuy nhiên, để có thể tiếp cận thị trường đặc thù này một cách hiệu quả, Việt Nam cần xây dựng một hệ thống quản lý nhà nước đồng bộ, minh bạch, phù hợp với các chuẩn mực quốc tế và đáp ứng được yêu cầu nghiêm ngặt của người tiêu dùng Hồi giáo.

Tại Hội nghị sơ kết Đề án “Tăng cường hợp tác quốc tế để xây dựng và phát triển ngành Halal Việt Nam đến năm 2030” do Bộ Ngoại giao chủ trì tổ chức ngày 10/11/2025, Chủ tịch Ủy ban Tiêu chuẩn Đo lường Chất lượng (TCĐLCL) Quốc gia, Bộ Khoa học và Công nghệ (KH&CN) Nguyễn Nam Hải đã có những chia sẻ quan trọng về tình hình triển khai hoạt động tiêu chuẩn hóa và chứng nhận Halal tại Việt Nam.

a-hiep-5.jpg
Hội nghị sơ kết Đề án “Tăng cường hợp tác quốc tế để xây dựng và phát triển ngành Halal Việt Nam đến năm 2030” do Bộ Ngoại giao chủ trì tổ chức ngày 10/11/2025. Ảnh NN.

Xây dựng hệ thống tiêu chuẩn làm nền tảng cho phát triển

Theo ông Nguyễn Nam Hải, hệ thống tiêu chuẩn quốc gia (TCVN) chính là cơ sở nền tảng của mọi hoạt động quản lý chất lượng, đặc biệt đối với lĩnh vực Halal nơi mà yêu cầu về quy trình, vệ sinh, nguyên liệu và đạo đức sản xuất được đặt lên hàng đầu. Thời gian qua, Ủy ban TCĐLCL Quốc gia đã chủ động xây dựng và ban hành nhiều TCVN có liên quan trực tiếp đến lĩnh vực này. Trong đó có 4 tiêu chuẩn cho chuỗi thực phẩm Halal (bao gồm yêu cầu chung, quy trình giết mổ, thực hành nông nghiệp tốt và sản xuất thức ăn chăn nuôi), 1 tiêu chuẩn cho dịch vụ du lịch thân thiện với người Hồi giáo và 1 tiêu chuẩn quy định yêu cầu đối với tổ chức chứng nhận sản phẩm Halal.

Không dừng lại ở đó, Ủy ban đang giao cho Viện Tiêu chuẩn Chất lượng Việt Nam phối hợp với các ban kỹ thuật tiếp tục xây dựng thêm 17 tiêu chuẩn mới, trong đó có 3 tiêu chuẩn chung về sản phẩm và dịch vụ Halal cùng 14 tiêu chuẩn cụ thể cho thực phẩm Halal, bao gồm cả việc soát xét lại TCVN 12944:2020 - tiêu chuẩn cốt lõi về “Thực phẩm Halal - Yêu cầu chung". Mục tiêu của Việt Nam là từng bước hình thành một hệ thống tiêu chuẩn đồng bộ, tiệm cận với tiêu chuẩn quốc tế, đặc biệt là tiêu chuẩn của Tổ chức Hợp tác Hồi giáo (OIC) và Viện Tiêu chuẩn và Đo lường Hồi giáo (SMIIC).

Việc chuẩn hóa không chỉ giúp doanh nghiệp dễ dàng hơn trong quá trình chứng nhận và xuất khẩu, mà còn thể hiện năng lực của Việt Nam trong việc tham gia sâu vào chuỗi giá trị Halal toàn cầu một lĩnh vực vốn đang được nhiều quốc gia châu Á như Malaysia, Indonesia hay Thái Lan đầu tư mạnh mẽ.

Tăng cường năng lực chứng nhận - bước đi thiết thực để doanh nghiệp hội nhập

Song song với việc xây dựng tiêu chuẩn, năng lực của các tổ chức chứng nhận Halal trong nước cũng đang được chú trọng phát triển. Tính đến nay, Ủy ban TCĐLCL Quốc gia đã cấp giấy chứng nhận đăng ký hoạt động cho 3 tổ chức gồm: Trung tâm Chứng nhận Halal Quốc gia (HALCERT) trực thuộc Trung tâm Chứng nhận Phù hợp (QUACERT), Công ty TNHH Văn phòng Chứng nhận Halal và Công ty TNHH Chứng nhận Halal Toàn cầu (GHC).

Các tổ chức này đã tiến hành cấp chứng nhận Halal cho hơn 1.000 doanh nghiệp Việt Nam thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau, từ thực phẩm chế biến, đồ uống, thủy sản cho đến mỹ phẩm và dịch vụ. Con số này cho thấy mức độ quan tâm và sự sẵn sàng của cộng đồng doanh nghiệp trong việc khai phá thị trường Halal vốn được xem là “cửa ngõ” để hàng hóa Việt Nam thâm nhập vào các quốc gia Hồi giáo ở Trung Đông, Nam Á và Bắc Phi.

Mặc dù đã đạt được nhiều kết quả đáng khích lệ, nhưng lĩnh vực chứng nhận Halal của Việt Nam hiện vẫn đối mặt với nhiều khó khăn và thách thức, đặc biệt là vấn đề công nhận quốc tế. Nguyên nhân chủ yếu đến từ việc hệ thống tiêu chuẩn và cơ chế công nhận của các quốc gia Hồi giáo chưa có sự thống nhất. Một số quốc gia như Malaysia, Indonesia, Thổ Nhĩ Kỳ hay các nước vùng Vịnh đều có cơ quan Halal riêng, áp dụng tiêu chí và thủ tục khác nhau, dẫn đến việc các doanh nghiệp xuất khẩu phải “xin” nhiều loại chứng nhận nếu muốn tiếp cận các thị trường khác nhau.

Ngoài ra, một số rào cản kỹ thuật cũng khiến hoạt động chứng nhận gặp khó khăn. Chẳng hạn, Malaysia quy định tổ chức chứng nhận Halal phải thuộc sở hữu của người Hồi giáo, điều này gây bất lợi cho các đơn vị của Việt Nam, nhất là các tổ chức công lập hoặc doanh nghiệp nhà nước.

Đẩy mạnh hợp tác quốc tế và hoàn thiện khung pháp lý

Trước những thách thức trên, hoạt động quản lý nhà nước* đóng vai trò định hướng và dẫn dắt đặc biệt quan trọng. Bộ KH&CN đang tích cực thúc đẩy hợp tác quốc tế đa phương và song phương để hướng tới sự công nhận lẫn nhau trong lĩnh vực Halal, yếu tố then chốt giúp doanh nghiệp Việt Nam rút ngắn quy trình chứng nhận khi xuất khẩu.

Hiện nay, Ủy ban TCĐLCL Quốc gia đã ký kết Biên bản ghi nhớ với Tổ chức Tiêu chuẩn Quốc gia Iran (INSO) và Thỏa thuận hợp tác kỹ thuật với Tổ chức Tiêu chuẩn Đo lường và Chất lượng Ả-rập Xê-út (SASO). Bên cạnh đó, Bộ KH&CN cũng đang làm việc với Bộ Công nghiệp và Công nghệ Tiên tiến UAE (MoIAT) nhằm thúc đẩy hợp tác cụ thể trong lĩnh vực Halal và Ủy ban TCĐLCL Quốc gia là đầu mối triển khai.

Trong bối cảnh nhu cầu tiêu dùng sản phẩm Halal không chỉ giới hạn trong cộng đồng Hồi giáo mà đang lan rộng sang các nhóm khách hàng khác do yếu tố an toàn, truy xuất nguồn gốc và tiêu chuẩn cao, ngành Halal hứa hẹn sẽ là hướng phát triển tiềm năng và bền vững cho doanh nghiệp Việt Nam trong thời gian tới./.

Nguyễn Nam - Phong Vũ