Thúc đẩy chuyển giao công nghệ, khơi thông đổi mới sáng tạo
Việc ban hành Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Chuyển giao công nghệ nhằm tiếp tục hoàn thiện khung pháp lý để thúc đẩy hoạt động chuyển giao công nghệ một cách hiệu quả, đồng bộ, phù hợp với yêu cầu thực tiễn và chủ trương phát triển kinh tế - xã hội, đồng thời bắt kịp xu thế thế giới trong chuyển giao công nghệ.
Tại Phiên họp thứ 50 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, dưới sự chủ trì của Phó Chủ tịch Quốc hội Lê Minh Hoan, các đại biểu đã xem xét Tờ trình và Báo cáo thẩm tra sơ bộ về dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Chuyển giao công nghệ.
Hoàn thiện khung pháp lý để thúc đẩy hoạt động chuyển giao công nghệ
Trình bày Tờ trình dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của dự án Luật Chuyển giao công nghệ, Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ Nguyễn Mạnh Hùng cho biết, mặc dù Luật Chuyển giao công nghệ 2017 đã tạo hành lang pháp lý cho hoạt động chuyển giao công nghệ trong nước, chuyển giao công nghệ từ nước ngoài vào Việt Nam và chuyển giao công nghệ từ Việt Nam ra nước ngoài, tuy nhiên đến nay, Luật đã bộc lộ nhiều hạn chế, chưa theo kịp tốc độ phát triển nhanh chóng của KHCN&ĐMST thế giới, chưa đáp ứng bối cảnh đất nước ta đang đứng trước yêu cầu đột phá phát triển KHCN, ĐMST&CĐS.
Luật sửa đổi, bổ sung Luật Chuyển giao công nghệ tiếp tục kế thừa phạm vi điều chỉnh của Luật hiện hành, mở rộng một số đối tượng Chuyển giao công nghệ phù hợp với xu thế của thế giới, mở rộng hoạt động thẩm định công nghệ không chỉ đối với dự án đầu tư.
Phạm vi điều chỉnh của Luật Chuyển giao công nghệ theo đó được sửa đổi, bổ sung để bao quát các quy định về hoạt động Chuyển giao công nghệ tại Việt Nam, từ nước ngoài vào Việt Nam, từ Việt Nam ra nước ngoài; quyền và nghĩa vụ của tổ chức, cá nhân tham gia hoạt động Chuyển giao công nghệ; thẩm định công nghệ; hợp đồng Chuyển giao công nghệ; biện pháp khuyến khích Chuyển giao công nghệ, phát triển thị trường KHCN; quản lý nhà nước về Chuyển giao công nghệ.

Việc ban hành Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Chuyển giao công nghệ nhằm tiếp tục hoàn thiện khung pháp lý để thúc đẩy hoạt động chuyển giao công nghệ một cách hiệu quả, đồng bộ, phù hợp với yêu cầu thực tiễn và chủ trương phát triển kinh tế - xã hội, đồng thời bắt kịp xu thế thế giới trong chuyển giao công nghệ; Tăng cường phân cấp, đơn giản hóa thủ tục hành chính về chuyển giao công nghệ, tăng cường công tác thông tin, thống kê về chuyển giao công nghệ phục vụ quản lý nhà nước.
Sau khi sửa đổi, bổ sung, Luật Chuyển giao công nghệ có 6 chương và 60 điều (giữ nguyên số chương, giảm 1 điều so với Luật hiện hành).
Các nội dung sửa đổi, bổ sung tập trung vào 6 nhóm chính sách, đó là: Xác định phạm vi công nghệ điều chỉnh trong Luật để bao quát công nghệ mới theo xu thế trên thế giới và yêu cầu thực tiễn; Hỗ trợ, thúc đẩy chuyển giao công nghệ nội sinh, bao gồm chuyển giao công nghệ giữa các doanh nghiệp/tổ chức, cá nhân trong nước, thương mại hóa kết quả nghiên cứu và phát triển; Phát triển thị trường khoa học và công nghệ hoạt động chuyên nghiệp, minh bạch; Tạo động lực tài chính, thể chế, pháp lý cho hoạt động chuyển giao công nghệ; Tăng cường kiểm soát chuyển giao công nghệ xuyên biên giới để vừa kiểm soát an ninh công nghệ, vừa thúc đẩy chuyển giao công nghệ quốc tế hiệu quả; Tăng cường năng lực quản lý nhà nước, thực hiện giám sát, thống kê, đo lường hiệu quả chuyển giao công nghệ.
Thẩm tra nội dung này, Phó Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường Nguyễn Phương Tuấn cho biết, Thường trực Ủy ban thống nhất quan điểm, mục tiêu, phạm vi sửa đổi của Dự thảo luật. Nội dung Dự thảo luật phù hợp với chủ trương, đường lối đổi mới của Đảng; kịp thời tháo gỡ khó khăn, bất cập trong công tác quản lý nhà nước, đáp ứng yêu thực tiễn và hội nhập quốc tế. Dự án luật trình theo trình tự, thủ tục rút gọn, hồ sơ dự án Luật được chuẩn bị nghiêm túc, cơ bản bảo đảm theo yêu cầu quy định tại khoản 5 Điều 51 Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật, đủ điều kiện trình Quốc hội.
Về phạm vi điều chỉnh, Thường trực Ủy ban cơ bản tán thành với việc mở rộng một số đối tượng chuyển giao công nghệ phù hợp với xu thế của thế giới (như công nghệ xanh, công nghệ sạch).
Tuy nhiên, với việc mở rộng phạm vi “thẩm định công nghệ” mà không chỉ giới hạn trong các “dự án đầu tư” như quy định tại Luật Chuyển giao công nghệ hiện hành, cần tiếp tục rà soát để bảo đảm tính khả thi trong tổ chức thực hiện và đồng bộ với pháp luật có liên quan.
Về chính sách của Nhà nước đối với hoạt động chuyển giao công nghệ, Thường trực Ủy ban đề nghị Cơ quan chủ trì soạn thảo rà soát, nghiên cứu bổ sung cơ chế khuyến khích đủ mạnh và thực chất để thực hiện hiệu quả chính sách "chú trọng lan tỏa công nghệ từ doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài sang doanh nghiệp trong nước"; đồng thời, nghiên cứu nội dung bổ sung đối tượng doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Cầu khắc phục tình trạng nghiên cứu “treo”
Phát biểu tại phiên họp, Chủ tịch Quốc hội Trần Thanh Mẫn nhấn mạnh, mục đích của việc sửa luật là quy định toàn diện hoạt động chuyển giao công nghệ tại Việt Nam (từ nước ngoài vào Việt Nam và ngược lại); đề nghị tập trung sửa luật này để nhanh chóng thể chế hóa Nghị quyết 57-NQ/TW.

Nhấn mạnh yêu cầu khắc phục tình trạng nghiên cứu rồi để đó, nghiên cứu “treo”, qua đó hỗ trợ khởi nghiệp, góp phần nâng cao năng suất lao động và giá trị kinh tế số, Chủ tịch Quốc hội đánh giá, luật phải bảo đảm tính khả thi, đáp ứng yêu cầu hội nhập, phải hoàn thiện đồng bộ và đơn giản hóa thủ tục; mở rộng hỗ trợ vùng khó khăn và công nghệ chiến lược.
Cùng với đó, cần tích hợp các chính sách ưu đãi mạnh mẽ nhằm thu hút các nhà đầu tư chiến lược, doanh nghiệp hàng đầu về công nghệ có vốn đầu tư nước ngoài (FDI) vào Việt Nam, kèm theo yêu cầu chuyển giao công nghệ từ doanh nghiệp FDI sang doanh nghiệp trong nước.
Đồng thời, cần có cơ chế đo lường tỉ lệ thương mại hóa kết quả nghiên cứu, chuyển giao công nghệ và có cơ chế giám sát hiệu quả.
Giải trình, làm rõ thêm ý kiến các đại biểu, Bộ trưởng Nguyễn Mạnh Hùng thừa nhận hoạt động chuyển giao công nghệ thời gian qua còn yếu, chưa hiệu quả, lý do là giai đoạn qua tập trung nhiều vào gia công, lắp ráp và cũng chưa chú ý đến công nghệ.
Nay đã đến giai đoạn phát triển dựa vào KHCN&ĐMST thì sửa đổi Luật Chuyển giao công nghệ phải tạo ra được sự phát triển đột phá về chuyển giao công nghệ, về thương mại hóa kết quả nghiên cứu, giảm các thủ tục hành chính, Bộ trưởng cho hay.
Lần đầu tiên chúng ta phân làm 3 mức chuyển giao công nghệ, từ ứng dụng đến làm chủ rồi nghiên cứu phát triển để có những chính sách phù hợp.
Hiện nay chúng ta quy định mức một là mua về dùng được tính chi phí được khấu trừ thuế 100 %; mức hai là tiêu hóa, tức là hiểu được công nghệ, cải tiến công nghệ cho phép khấu trừ 150%; mức 3 mức sáng tạo, giống như nghiên cứu phát triển được hưởng mức ưu đãi là 200% khấu trừ thuế như Luật Khoa học công nghệ và ĐMST. Hỗ trợ đủ cho người chuyển giao, người nhận chuyển giao và người trung gian kết nối.
Bộ trưởng Nguyễn Mạnh Hùng cũng cho biết, tạo động lực thúc đẩy chuyển giao công nghệ thông qua các chính sách hỗ trợ về tài chính, thuế, pháp lý, thủ tục liên thông, thông qua các quỹ về đổi mới công nghệ và coi chuyển giao công nghệ là mức cao của đổi mới công nghệ để hỗ trợ. Đồng thời, các quy định chi tiết về chuyển giao công nghệ sẽ để Chính phủ quy định./.