Ý kiến chuyên gia

Đánh giá tác động của khoa học xã hội và kinh tế học Việt Nam qua Danh sách Stanford 2019-2025

Trần Thanh Tú (Đại học Copenhagen), Công Thường (Bộ Khoa học và Công nghệ) 27/09/2025 14:35

Dù khoa học xã hội và nhân văn (KHXH&NV) Việt Nam có những điểm sáng nhất định, lĩnh vực này vẫn bộc lộ hạn chế về tăng trưởng tác động so với các lĩnh vực khác, đặc biệt là Kinh tế và Kinh doanh.

Đến hẹn lại lên, dữ liệu năm 2025 của Danh sách Stanford (Elsevier - Stanford Ranking) đã được chính thức công bố trên Elsevier Data Repository ngày 19/9/2025 bởi GS. John Ioannidis (Đại học Stanford). Đây là lần cập nhật thứ bảy liên tiếp kể từ khi danh sách lần đầu tiên được xuất bản vào ngày 6/7/2019 [1, 2]. Bài viết này được thực hiện nhằm đánh giá sự hiện diện của các nhà nghiên cứu Việt Nam thuộc lĩnh vực KHXH&NV và Kinh tế và Kinh doanh giai đoạn 2019-2025, đồng thời so sánh với các lĩnh vực ngoài KHXH&NV.

Danh sách Elsevier - Stanford Ranking là một nỗ lực khoa học toàn cầu nhằm chuẩn hóa việc đánh giá tác động nghiên cứu thông qua hệ thống trích dẫn. Dựa trên dữ liệu từ cơ sở dữ liệu Scopus, danh sách này đo lường mức độ ảnh hưởng khoa học theo từng chuyên ngành cụ thể, thông qua một tập hợp chỉ số phức hợp như tổng số trích dẫn, chỉ số Hirsch (h-index) và Schreiber (hm-index), cùng nhiều chỉ số có trọng số khác.

Hệ thống được chia thành hai bảng: Bảng "Suốt sự nghiệp" phản ánh ảnh hưởng tích lũy lâu dài, trong khi bảng "Năm gần nhất" ghi nhận các đóng góp mới nổi và tác động hiện tại. Cách tiếp cận này cho phép cân bằng giữa việc vinh danh các học giả có di sản khoa học bền vững và những nhà nghiên cứu đang tạo ra tác động mạnh mẽ trong giai đoạn gần đây.

Trong những năm qua, đã có nhiều bài báo và phương tiện truyền thông đưa tin về sự góp mặt của các nhà khoa học Việt Nam trong Danh sách Stanford. Tuy nhiên, vẫn còn thiếu những phân tích sâu về lĩnh vực KHXH&NV cũng như Kinh tế và Kinh doanh.

Nhân dịp danh sách bước sang năm cập nhật thứ bảy, bài viết này được thực hiện nhằm đánh giá sự hiện diện của các nhà nghiên cứu Việt Nam thuộc KHXH&NV và Kinh tế và Kinh doanh giai đoạn 2019-2025, đồng thời so sánh với các lĩnh vực ngoài KHXH&NV.

Giai đoạn 2019-2025

Danh sách "Suốt sự nghiệp" năm 2025 ghi nhận 230.272 nhà khoa học nằm trong top 2%, trong khi danh sách "Năm gần nhất" ghi nhận 236.276 nhà khoa học [1]. Trong đó, số học giả thuộc KHXH&NV là 8.491 (3,69%) trong danh sách "Suốt sự nghiệp" và 9.344 (3,96%) trong danh sách "Năm gần nhất". Đối với lĩnh vực Kinh tế và Kinh doanh, số học giả thuộc danh sách "Suốt sự nghiệp" và "Năm gần nhất" lần lượt là 4.475 (1,94%) và 6.484 (2,74%).

Số liệu năm 2025 vẽ nên một bức tranh đa chiều về khoa học Việt Nam. Trong khi số lượng nhà KHXH&NV có sự tăng trưởng, sự tăng trưởng này rất hạn chế so với các lĩnh vực còn lại, đặc biệt là lĩnh vực Kinh tế và Kinh doanh ở trong cả hai danh sách "Suốt sự nghiệp" và "Năm gần nhất" (hình 1 và 2).

Hình 1 và 2 minh họa số lượng nhà khoa học Việt Nam xuất hiện trong hai danh sách "Suốt sự nghiệp" và "Năm gần nhất" trong giai đoạn 2019-2025, theo bốn nhóm lĩnh vực: (1) Toàn bộ các ngành, (2) Ngoài KHXH&NV, (3) KHXH&NV, (4) Kinh tế và Kinh doanh. Trong cơ sở dữ liệu, Kinh tế và Kinh doanh được phân loại tách biệt với KHXH&NV.

Nhìn tổng thể, khoa học Việt Nam cho thấy nhiều chuyển biến tích cực khi số lượng nhà khoa học xuất hiện trong cả hai danh sách đều tăng ổn định, đồng thời tỷ lệ nhà khoa học Việt Nam so với thế giới cũng tăng lên. Đặc biệt, lĩnh vực Kinh tế và Kinh doanh đang có tốc độ gia tăng nhanh hơn mặt bằng chung cả về số lượng và tỷ lệ so với toàn cầu.

thuong-danh-gia-tac-dong-cua-khxh-va-kinh-te-hoc-1.jpg
Hình 1. Số lượng nhà nghiên cứu Việt Nam và tỷ lệ so với thế giới trong danh sách "Suốt sự nghiệp", giai đoạn 2019-2025.
thuong-danh-gia-tac-dong-cua-khxh-va-kinh-te-hoc-2.jpg
Hình 2. Số lượng nhà nghiên cứu Việt Nam và tỷ lệ so với thế giới trong danh sách "Năm gần nhất", giai đoạn 2019-2025.

Đối với KHXH&NV, mặc dù có sự hiện diện từ khá sớm của GS. Vương Quân Hoàng (Đại học Phenikaa) trong danh sách Stanford - lần đầu ở bảng "Năm gần nhất" vào năm 2020 và sau đó ở bảng "Suốt sự nghiệp" năm 2021 - nhưng mức độ hiện diện lại suy giảm trong các năm tiếp theo. Phải đến năm 2024 mới ghi nhận thêm học giả thứ hai ở bảng "Năm gần nhất". Đến năm nay, số lượng đã tăng gấp đôi với sự góp mặt của hai gương mặt mới.

Nếu xét tỷ lệ nhà khoa học Việt Nam so với thế giới trong các lĩnh vực ngoài KHXH&NV năm 2025, con số này đạt 0,028% (63/221.781) trong "Suốt sự nghiệp" và 0,083% (189/226.932) trong "Năm gần nhất".

Đối với KHXH&NV, tỷ lệ tương ứng là 0,012% (1/8.491) và 0,043% (4/9.344), còn Kinh tế và Kinh doanh là 0,067% (3/4.475) và 0,355% (23/6.484) cho thấy sự chênh lệch khoảng 5,58 lần giữa hai ngành trong danh sách "Suốt sự nghiệp" và 8,26 lần trong danh sách "Năm gần nhất".

Bảng 1. Top 5 các nhà khoa học hàng đầu Việt Nam trong Danh sách Stanford (2025) - Lĩnh vực Kinh Tế và Kinh Doanh [3].

thuong-danh-gia-tac-dong-cua-khxh-va-kinh-te-hoc-3.jpg

Năm 2025, các nhà nghiên cứu Kinh tế và Kinh doanh đến từ 14 trường đại học và cơ quan nghiên cứu trên cả nước, trong khi số học giả thuộc KHXH&NV chỉ đến từ 2 đơn vị. Đáng chú ý, phần lớn các nhà khoa học Kinh tế và Kinh doanh tập trung tại Đại học Kinh tế TP Hồ Chí Minh, chiếm 34,78% (8/23).

Tiếp theo là Đại học Kinh tế Quốc dân và Trường Đại học Ngoại thương, mỗi trường có 2 nhà nghiên cứu được ghi nhận (bảng 1). Trong khi đó, 3 trong số 4 học giả KHXH&NV đến từ Trung tâm Nghiên cứu Xã hội Liên ngành ISR (Đại học Phenikaa) và người còn lại thuộc Học viện Chính trị Khu vực II, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh (bảng 2).

Bảng 2. Top 5 các nhà khoa học hàng đầu Việt Nam trong Danh sách Stanford (2025) - Lĩnh vực Khoa học Xã hội [3].

thuong-danh-gia-tac-dong-cua-khxh-va-kinh-te-hoc-4.jpg

Tương lai phát triển

Như vậy, dù KHXH&NV Việt Nam có những điểm sáng nhất định, lĩnh vực này vẫn bộc lộ hạn chế về tăng trưởng tác động so với các lĩnh vực khác, đặc biệt là Kinh tế và Kinh doanh. Có nhiều nguyên nhân lý giải cho thực trạng này.

Trước hết, bản thân phương pháp đo lường của Danh sách Stanford, dù hướng đến sự bao quát và công bằng, vẫn mang lại lợi thế cho các ngành có khối lượng xuất bản lớn và mạng lưới trích dẫn quốc tế dày đặc. Các lĩnh vực như Kinh tế và Kinh doanh vốn sở hữu cộng đồng nghiên cứu toàn cầu hóa cao, sử dụng tiếng Anh làm ngôn ngữ chủ đạo và có truyền thống hợp tác quốc tế lâu đời.

Ngược lại, nhiều công trình KHXH&NV mang tính địa phương sâu sắc, sử dụng ngôn ngữ bản địa và tập trung vào các vấn đề đặc thù của từng quốc gia hoặc khu vực, nên ít có khả năng được trích dẫn trong các tạp chí quốc tế.

Bên cạnh đó, cũng cần thừa nhận rằng việc tạo ra các nghiên cứu KHXH&NV có tác động lớn không hề dễ dàng. Lĩnh vực này thường tập trung vào những vấn đề khó định lượng như văn hóa, nhân văn, công bằng xã hội, đạo đức hay ý nghĩa cuộc sống. Các nghiên cứu về di sản văn hóa, bình đẳng giới, giáo dục nhân cách, trí tuệ và tâm lý con người, hay triết học chính trị có thể tạo ra ảnh hưởng sâu rộng, nhưng để thực sự có giá trị, chúng phải góp phần thay đổi nhận thức xã hội, cải cách chính sách, nuôi dưỡng phong trào cộng đồng và định hình bản sắc văn hóa.

Hơn nữa, để những giá trị này được ghi nhận trong các cơ sở dữ liệu quốc tế, các nghiên cứu thông thường cần đạt đến mức độ ảnh hưởng và sức thuyết phục ở tầm khu vực và toàn cầu. Nói cách khác, thành công trong KHXH&NV không chỉ đòi hỏi đầu tư nguồn lực, mà còn cần sự dấn thân, tinh thần hướng thượng, năng lực sáng tạo và ý thức công ích [4].

Thực tế này đặt ra những câu hỏi đáng suy ngẫm. Nền tảng của KHXH&NV cũng như Kinh tế và Kinh doanh nằm ở cách con người xây dựng và vận dụng hệ giá trị [5]. Việt Nam đang bước vào giai đoạn bứt phá với nhiều mục tiêu chiến lược: Phát triển kinh tế, kiến tạo xã hội văn minh hiện đại, củng cố nền tảng văn hóa dân tộc, thúc đẩy chuyển đổi số và chuyển đổi xanh.

Để hiện thực hóa những mục tiêu đó, cần có sự đổi mới đột phá trong tư duy và phương pháp suy nghĩ ở cả cấp độ cá nhân lẫn xã hội. Và sự đổi mới ấy không thể tách rời khỏi các giá trị cốt lõi về văn hóa, nhân văn, con người, đạo đức và giáo dục - vốn là nền móng của mọi quốc gia, dân tộc.

Vì vậy, phát triển một nền KHXH&NV vững mạnh song hành cùng Kinh tế và Kinh doanh không chỉ là nhu cầu học thuật, mà còn là điều kiện tiên quyết để bảo đảm sự bền vững và hiệu quả của tiến trình phát triển quốc gia trong kỷ nguyên mới./.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

[1] J.P.A. Ioannidis (2024), “Updated science-wide author databases of standardized citation indicators", Elsevier Data Repository, DOI: 10.17632/btchxktzyw.7.

[2] J.P.A. Ioannidis, J. Baas, R. Klavans, et al. (2019), “A standardized citation metrics author database annotated for scientific field”, PLOS Biology, 17(8), DOI: 10.1371/journal.pbio.3000384.

[3] T.T.M. Anh (2025), Các nhà nghiên cứu Việt Nam có ảnh hưởng nhất thế giới năm 2025”, Tạp chí điện tử Khoa học và Công nghệ Việt Nam, https://vjst.vn/cac-nha-nghien-cuu-viet-nam-co-anh-huong-nhat-the-gioi-nam-2025-70687.html, truy cập ngày 22/9/2025.

[4] D.T.M. Phượng (2025), “Vị trí của khoa học xã hội và nhân văn Việt Nam trong danh sách top 2% nhà khoa học thế giới”, Khoa học và Phát triển, https://khoahocphattrien.vn/khoa-hoc/vi-tri-cua-khxhnv-viet-nam-trong-danh-sach-top-2-nha-khoa-hoc-the-gioi/20250925074936993p1c160.htm, truy cập ngày 22/9/2025.

[5] Q.H. Vuong, M.H. Nguyen, M.T. Ho, et al. (2025), GITT: Essentials, Uses, and Usage, AISDL, https://books.google.com/books/about?id=FK-EEQAAQBAJ, truy cập ngày 22/9/2025.

Trần Thanh Tú (Đại học Copenhagen), Công Thường (Bộ Khoa học và Công nghệ)