Thứ năm, 29/10/2020 15:36

Chuyển đổi số nhằm phục hồi tăng trưởng nhanh theo hướng bền vững và bao trùm trong bối cảnh đại dịch Covid-19

Nguyễn Tuấn Thành

Bộ Kế hoạch và Đầu tư

Diễn đàn thường niên về cải cách và phát triển Việt Nam lần thứ ba năm 2020 (VRDF 2020) được Bộ Kế hoạch và Đầu tư tổ chức tại Hà Nội vừa qua đã thu hút được đông đảo các chuyên gia, nhà khoa học, nhà quản lý, doanh nghiệp trong nước và quốc tế tham vấn cho sự phát triển của Việt Nam trong bối cảnh đại dịch Covid-19. Với chủ đề “Việt Nam: Hành động để phục hồi tăng trưởng nhanh theo hướng bền vững và bao trùm trong bối cảnh đại dịch Covid-19”, VRDF 2020 đề cập đến những vấn đề mang tính cốt lõi như: thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), giải pháp cho doanh nghiệp trong bối cảnh hiện nay, lý do phải chuyển đổi số bao trùm…

Cơ hội luôn đi cùng thách thức

Tại Diễn đàn, các đại biểu đã phân tích những tác động của đại dịch Covid-19 ở cả góc độ toàn cầu và Việt Nam, trong đó ảnh hưởng nặng nề nhất là suy thoái kinh tế toàn cầu, chuỗi giá trị toàn cầu (GVC) bị đứt gãy, số lượng doanh nghiệp giải thể gia tăng, tỷ lệ thất nghiệp cao… Bên cạnh những khó khăn, thách thức do đại dịch Covid-19 gây ra, các đại biểu tại VRDF 2020 cũng đã nêu lên những cơ hội mà các quốc gia đang phát triển, doanh nghiệp có thể nắm bắt. “Những thay đổi về hành vi do đại dịch gây ra sẽ thúc đẩy ứng dụng công nghệ mới, tự động hóa sản xuất, đặc biệt là trong ngành chế biến chế tạo, cũng như đưa vào áp dụng các công nghệ kỹ thuật số một cách rộng rãi hơn, nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp và tốc độ đổi mới công nghệ. Một cơ hội nữa cho các nước đang phát triển là việc tái phân bổ các cơ sở sản xuất kinh doanh của các công ty đa quốc gia muốn đa dạng hóa chuỗi cung ứng đối với các sản phẩm hiện có của mình và hình thành các liên minh kinh tế mới. Đối với các quốc gia có môi trường kinh doanh và quản trị vững chắc hoặc đang được cải thiện một cách đáng tin cậy, đây có thể là cơ hội mới để tăng cường sự tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu” - TS Victoria Kwakwa - Phó Chủ tịch phụ trách khu vực Đông Á và Thái Bình Dương của Ngân hàng thế giới (WB) nhận định.

Theo bà Hà Thị Thu Thanh - Chủ tịch Hội đồng thành viên Deloite Việt Nam thì cuộc chiến thương mại Mỹ - Trung mang đến cho nền kinh tế và doanh nghiệp Việt Nam cả cơ hội và thách thức. Bà Thanh dẫn lời nhà kinh tế của Ngân hàng Đầu tư Nhật Bản Nom Nomura trong một báo cáo được công bố vào tháng 6/2019 đã chỉ ra rằng, Việt Nam đã trở thành người chiến thắng lớn nhất trong năm đầu tiên của cuộc chiến thương mại Trung - Mỹ. Các chuyên gia cũng dự báo, ít nhất 20% cơ sở sản xuất ở Trung Quốc sẽ di dời sang nước khác trong những năm tới. Gần 80% các công ty Mỹ đang có kế hoạch chuyển hệ thống sản xuất ra khỏi Trung Quốc và Việt Nam được đánh giá là điểm đến rất hợp lý cho quá trình dịch chuyển này với lực lượng lao động chất lượng cao nhưng chi phí thấp và vị trí địa lý gần với chuỗi cung ứng ở Trung Quốc.

Các hiệp định thương mại thế hệ mới là nền tảng để doanh nghiệp Việt Nam thay đổi diện mạo, hội nhập và phát triển. Sau Hiệp định Đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP), việc Việt Nam tham gia ký kết Hiệp định Thương mại tự do với Liên minh châu Âu (EVFTA) đã góp phần giúp chúng ta thiết lập được quan hệ đối tác bình đẳng, trên cơ sở đôi bên cùng có lợi với một số nền kinh tế phát triển nhất thế giới. Điều đặc biệt là Việt Nam là nước thứ hai trong ASEAN và là nước đang phát triển đầu tiên trong khu vực ký kết FTA với EU. Các FTA thế hệ mới này được kỳ vọng sẽ tạo cơ hội mở rộng thị trường, đẩy mạnh xuất khẩu cho hàng hóa của Việt Nam, trở thành một “đòn bẩy” quan trọng và là một chiến lược dài hạn nhằm giúp doanh nghiệp Việt Nam tham gia sâu vào chuỗi giá trị trong khu vực, nâng cao năng lực sản xuất, xuất khẩu và cạnh tranh, khẳng định vị thế mới trên trường quốc tế.

Thúc đẩy đầu tư trong nước song song với thu hút FDI

Về vai trò của FDI đối với nền kinh tế của Việt Nam, ông Jonathan Pincus - Chuyên gia kinh tế thuộc Cơ quan Phát triển của Liên hợp quốc (UNDP) tại Việt Nam cho rằng: FDI đã đóng vai trò quan trọng trong tăng trưởng kinh tế của Việt Nam 3 thập kỷ qua. FDI kích thích tăng trưởng bằng cách cung cấp khả năng tiếp cận thị trường xuất khẩu, công nghệ, sản phẩm, quy trình mới và gia tăng vốn đầu tư. Nhưng tăng trưởng cũng tạo ra FDI, khi các công ty đa quốc gia chuyển đến để phục vụ các ngành công nghiệp đang phát triển và thị trường tiêu dùng. Do đó, tỷ lệ hấp thụ FDI cao của Việt Nam cho đến khi xảy ra cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu là nguyên nhân và kết quả của tốc độ tăng trưởng cao trong nước.

Trong giai đoạn sau cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu, dòng vốn FDI vào Việt Nam tiếp tục tăng, nhưng với tốc độ chậm hơn. Điều này phản ánh các xu hướng tương tự trong khu vực và giữa các quốc gia đang phát triển trên toàn cầu. Tăng trưởng FDI chậm hơn là dấu hiệu cho thấy những thay đổi trong chính sách đầu tư ở các nước nhận đầu tư.

Theo một báo cáo của Ngân hàng thế giới năm 2020, dòng vốn FDI thường được coi là động lực chính đối với việc tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu, vì vậy các nước đang phát triển được khuyến khích dành ưu tiên cao cho việc thu hút vốn FDI. Các điều kiện tiên quyết được đề xuất để thu hút FDI bao gồm bảo vệ quyền sở hữu (trong đó có sở hữu trí tuệ), đơn giản hoá các quy định nhằm giảm chi phí kinh doanh, tự do hóa thương mại, nới lỏng bảo vệ lao động, phá giá tỷ giá hối đoái, các chính sách ưu đãi tài chính… Các chính sách công nghiệp nhằm nâng cao năng lực trong nước như yêu cầu về hàm lượng nội địa hoá không được khuyến khích vì chúng làm bóp méo thị trường.
Những tiến bộ trong tự động hóa có thể thu hẹp cánh cửa hiện có đối với Việt Nam để chuyển từ hoạt động lắp ráp sang các phân đoạn phức tạp hơn của chuỗi giá trị. Chính vì vậy, “Chính phủ cần phải tư duy sáng tạo về các công cụ có thể sử dụng nhằm thúc đẩy đầu tư trong nước và nâng cao vị thế trong phạm vi của các hiệp định đã ký kết. Chính phủ cũng cần phải xây dựng cơ sở hạ tầng để thúc đẩy sự phát triển của các trung tâm công nghiệp nhằm đạt được hiệu quả kinh tế như mong muốn và thu hút đầu tư vào các hoạt động nghiên cứu và phát triển” - các chuyên gia khuyến nghị.

Hành động của các doanh nghiệp

Tại Diễn đàn, nhóm tư vấn của Deloitte Việt Nam đã chia sẻ nghiên cứu của mình trong bối cảnh Covid-19 và chỉ ra 9 hành động thiết thực cần có của các doanh nghiệp nhằm giảm thiểu các tác động tiêu cực của đại dịch, đồng thời, cũng khuyến nghị rằng, đây là những nguyên tắc cơ bản mà mọi doanh nghiệp nên làm ngay cả khi không gặp các ảnh hưởng “tức thì” như Covid-19 để giúp doanh nghiệp phát triển lành mạnh, bền vững, tăng sức cạnh tranh, đặc biệt trong bối cảnh cạnh tranh cao thời “chiến tranh thương mại” và để phát huy hiệu quả của các FTA thế hệ mới. 9 hành động được chia thành 3 nhóm với các mức tác động khác nhau tới doanh nghiệp bao gồm:

- Nhóm 1 - Các hành động cần ưu tiên cao để tối ưu hóa hoạt động doanh nghiệp có hiệu quả tức thì, hoàn toàn trong khả năng thực thi và kiểm soát của mỗi doanh nghiệp: (1) Rà soát để tối ưu hóa dòng tiền chi ra của doanh nghiệp, cắt giảm các dòng chi chưa/không cần thiết; (2) Đối chiếu công nợ để tối ưu hóa chuỗi cung tài chính, xây dựng phương án thu hồi công nợ hoặc khoanh, giãn nợ hiệu quả hơn; (3) Tối ưu hóa hoạt động, tập trung vào duy trì hoạt động thiết yếu và liên quan trực tiếp để chuỗi cung ứng của doanh nghiệp.

- Nhóm 2 - Các hành động giúp tối ưu hóa hệ thống và doanh nghiệp hoàn toàn chủ động được trong khâu thực thi: (4) Nhận diện lại về khách hàng và thị trường bởi các chủ thể/yếu tố này cũng có nhiều biến đổi về nhu cầu, hành vi trong bối cảnh đại dịch; (5) Xây dựng, làm mới các chương trình tập trung vào chiến lược “giữ chân khách hàng” dựa trên phân tích nhu cầu, hành vi trước đó; (6) Xây dựng các chính sách để gắn kết, ràng buộc chặt chẽ (về lợi ích) với các nhà mua/cung ứng trong cùng chuỗi.

- Nhóm 3 - Các hành động mang tính chiến lược, dài hạn là sự lựa chọn khôn ngoan của doanh nghiệp để phục hồi và phát triển bền vững: (7) Điều chỉnh các sản phẩm/dịch vụ của doanh nghiệp ngày một hiệu quả hơn; (8) Điều chỉnh giá của sản phẩm và tái thiết các nhóm sản phẩm trọng tâm; (9) Tạo kênh tiếp cận dễ dàng hơn cho khách hàng đối với sản phẩm, dịch vụ của doanh nghiệp (ví dụ sử dụng nhiều hơn các nền tảng trực tuyến).

Việc mỗi doanh nghiệp nên lựa chọn thực hiện hành động nào trong số 9 hành động được các chuyên gia của Deloitte Việt Nam khuyến nghị sẽ phụ thuộc vào lĩnh vực ngành nghề, tình trạng “sức khỏe” và mức độ thanh khoản của doanh nghiệp cũng như vị trí của doanh nghiệp trong chuỗi cung ứng. Một trong những điều kiện tiên quyết giúp lãnh đạo doanh nghiệp có thể đưa ra quyết định và triển khai hiệu quả bất cứ hành động nào trong số 9 hành động nêu trên phụ thuộc rất nhiều vào mức độ “kiên tâm” (resilient) của nhà lãnh đạo, cũng như mức độ “kiên cường” (resilience) mà lãnh đạo có thể xây dựng cho tổ chức của mình.

Thúc đẩy chuyển đổi số

Số hóa đang thay đổi một cách căn bản các quy trình sản xuất, quy trình tạo giá trị cũng như yêu cầu của công việc. Đại dịch Covid-19 là động lực thúc đẩy mạnh mẽ đối với số hóa. Công nghệ số đang mở ra cơ hội sáng tạo mới, ranh giới ngành đang tan biến, các ngành mới đang xuất hiện và các mô hình kinh doanh quen thuộc đang thay đổi. Sự kết hợp giữa sản xuất và dịch vụ để tạo thành một chuỗi giá trị hỗn hợp đặt ra những yêu cầu mới đối với các công ty sản xuất công nghiệp truyền thống và đội ngũ lao động. Các bộ phận dân cư tại vùng nông thôn cũng có thể cảm thấy “bị lãng quên” hoặc tách biệt khỏi quá trình phát triển số diễn ra nhanh chóng.

Chương trình chuyển đổi số quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030 đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 749/QĐ-TTg ngày 3/6/2020 là cơ sở cho chuyển đổi số tại Việt Nam. Để thực hiện thành công Chương trình này, các đại biểu tham dự Diễn đàn đã đưa ra một số khuyến nghị: 1) Chuyển đổi số bao trùm cần hướng đến giải quyết môi trường thay đổi thông qua sự hỗ trợ có mục tiêu cho từng nhóm người, vùng hoặc ngành có nguy cơ bị tụt hậu; 2) Cần phải có một nỗ lực mạnh mẽ về giáo dục và phát triển nhân sự số, được hỗ trợ bởi các nguồn lực thích hợp để thúc đẩy phát triển kinh tế; 3) Cần tạo ra một nền tảng giáo dục quốc gia có thể bao gồm toàn bộ ngành giáo dục và có thể được sử dụng miễn phí bởi tất cả các bên liên quan đến giáo dục (nền tảng này có các giao diện mở để kết nối các nền tảng quốc gia và quốc tế hiện có thông qua các cổng); 4) Chính quyền địa phương có thể đóng vai trò dẫn đầu trong việc hợp tác hoặc tham gia một phần trong các trung tâm năng lực số địa phương để hỗ trợ về mặt thể chế, địa điểm, không gian làm việc chung và cơ sở hạ tầng công nghệ thông tin; 5) Công nghệ số nên được đón nhận như một phương tiện để nâng cao sự bình đẳng về cơ hội thông qua mở rộng cơ hội việc làm linh hoạt cho số lượng lớn hơn các nhóm vốn vẫn bị gạt ra ngoài lề, chẳng hạn như người nội trợ, người khuyết tật và dân tộc thiểu số.; 6) Các kỹ năng số nên được giảng dạy và quảng bá thật mạnh mẽ hơn nữa trong các trường phổ thông cũng như đại học; 7) Đánh giá năng lực hiện tại, dự kiến của cơ sở hạ tầng công nghệ thông tin của Việt Nam là nội dung cần thiết để cung cấp giáo dục trực tuyến hiệu quả, bao gồm cho những người ở các cộng đồng bị tách biệt về địa lý/kinh tế.

 

Đánh giá

X
(Di chuột vào ngôi sao để chọn điểm)