Thứ bảy, 30/05/2020 15:14

Đột tử: Nguyên nhân và các cách phòng tránh

BS Trần Quốc Khánh

Bệnh viện Hữu nghị Việt Đức

Sau mỗi ca tử vong đột ngột xảy đến, luôn để lại những câu hỏi thậm chí là những thắc mắc, nghi ngờ từ người nhà bệnh nhân. Thực sự thì trong nhiều trường hợp, nhân viên y tế và các bác sỹ cũng rất khó có câu trả lời xác đáng nếu như gia đình bệnh nhân không đồng ý khám nghiệm pháp y. Người ra đi, đã đi mãi. Chúng ta, những người ở lại có nên hành động vội vàng hay mọi người cần bình tĩnh đi tìm hiểu rõ ngọn nguồn câu chuyện và nguyên nhân của cái chết, để từ đó có thể ngăn ngừa chúng trong tương lai.

Nguyên nhân

Nguyên nhân tim mạch

Trong các nguyên nhân về tim mạch nói cung thì do ngừng tim và nhồi máu cơ tim là nguyên nhân chính. Đây là nguyên nhân hàng đầu dẫn đến đột tử. Mỗi năm có khoảng 326.000 bệnh nhân bị ngưng tim tại Mỹ và chỉ có khoảng 10,8% sống sót, trong đó nam giới chiềm phần lớn. Với nhồi máu cơ tim, chỉ tính tại Mỹ, cứ mỗi 43 giây lại có 1 người bị, trong đó khoảng 1/5 các trường hợp không có triệu chứng lâm sàng. Dữ liệu y tế được tổng hợp từ hơn 190 quốc gia cho thấy, bệnh tim vẫn là nguyên nhân gây tử vong số 1 trên toàn cầu với 17,3 triệu ca tử vong mỗi năm và dự kiến con số này sẽ tăng lên hơn 23,6 triệu vào năm 2030. 

Nguyên nhân gây ngừng tim thường do bệnh cơ tim phì đại (là bệnh có yếu tố di truyền và đây là nguyên nhân hay gặp nhất), bất thường động mạch vành, bệnh tim bẩm sinh, viêm cơ tim, hội chứng Brugada… Tổn thương ngừng tim hay xảy đến với các vận động viên thể thao lúc đang thi đấu, đó là hiện tượng một vật tác động thẳng trực tiếp và đột ngột vào thành ngực ngừng tim. Tổn thương gặp ở hầu hết nam giới tuổi thiếu niên, hiếm gặp với người trên 20 tuổi. 

Tai biến mạch máu não

Tai biến mạch máu não là nhóm nguyên nhân thứ hai dẫn đến cái chết đột ngột nhưng lại thường bị bỏ qua. Loại này có 2 dạng: do nghẽn mạch máu não hoặc do vỡ mạch máu não. Đột quỵ nghẽn mạch chiếm phần lớn (80%), thường có liên quan đến bệnh tim mạch và mỡ máu cao trong khi đột quỵ; vỡ mạch máu thường do cao huyết áp không được kiểm soát và uống nhiều rượu. Tai biến mạch máu não thường gặp ở người trên 60 tuổi, nam nhiều hơn nữ, nhưng nếu xảy ra ở nữ, tiên lượng nặng hơn.

Cục máu đông làm tắc mạch phổi 

Cục máu đông xuất hiện ở động mạch phổi làm tắc hệ thống mạch máu vào - ra ở phổi trong khi trao đổi khí dẫn đến cơ thể thiếu ô xy đột ngột và tử vong. Hằng năm có khoảng 60.000-100.000 người tử vong do tắc mạch phổi, trong đó đáng sợ hơn cả là có đến 25% chết bất thình lình với 2 triệu chứng thường gặp là khó thở và đau ngực. Các cục máu sâu thường hình thành khi chúng ta không hoạt động trong thời gian dài. Kết quả là, tắc mạch phổi thường xảy đến ở những người nằm liệt giường vì một căn bệnh nghiêm trọng hoặc chấn thương, hoặc những người đang hồi phục sau phẫu thuật. Nguy cơ này cũng tăng lên đối với những người ngồi lâu không vận động trong các chuyến bay đường dài hoặc các chuyến đi bằng ô tô.

Vỡ động mạch chủ 

Động mạch chủ là động mạch lớn nhất trong cơ thể, bao gồm 1 đoạn chạy trong ngực và 1 đoạn chạy trong bụng, có nhiệm vụ như dòng kênh lớn nhất giúp lưu chuyển máu đi khắp cơ thể. Vì một lý do nào đó (tuổi già, bệnh mạn tính, nhiễm trùng, cao huyết áp…) làm thành mạch yếu đi, phình ra, gây nên phình động mạch chủ. Một trong số đó vỡ sẽ gây nên bệnh cảnh vỡ động mạch chủ, bệnh nhân mất máu rất nhanh và ồ ạt, 90% tử vong trong tích tắc.

Trên đây là 4 nhóm nguyên nhân chính gây nên đột tử, trong gây mê hồi sức còn một nhóm nguyên nhân nữa đó chính là sốc phản vệ và trào ngược dị vật vào đường thở. Với những bệnh cảnh ở trên, chúng ta hầu như có rất ít thời gian để xử lý, hoặc nếu có thì những hậu quả, di chứng để lại cho bệnh nhân cũng vô cùng nặng nề (sống thực vật, liệt nửa người, khuyết hụt thần kinh khu trú…). Chính vì vậy, chúng ta cần xây dựng lối sống lành mạnh và thực hành phòng bệnh, vì đó là yếu tố quyết định giúp ta hạn chế được rủi ro đột tử bất cứ lúc nào.

Cách phòng tránh
Với đột tử do ngừng tim, ngay cả ở nước Mỹ thì việc sàng lọc và kiểm soát những người có nguy cơ bị ngừng tim cũng vô cùng khó khăn và chưa hiệu quả. Vậy nên, dự phòng bằng cách giải quyết các yêu tố nguy cơ chính là chìa khóa của vấn đề.

- Những rủi ro ngưng tim thường xảy ra với người hút thuốc lá, dùng thuốc an thần lâu dài, bệnh tăng mỡ máu, bệnh cao huyết áp và một số bệnh lý khác. Chúng ta cần kiểm soát tốt những vấn đề này.

- Caffeine và nicotine đều có thể làm tăng nhịp tim và làm trầm trọng thêm vấn đề rối loạn nhịp tim đã tồn tại bằng cách làm cho tim đập nhanh hơn. Ngoài ra, thuốc bất hợp pháp như cocaine, amphetamines và các chất kích thích khác có thể gây rối loạn nhịp tim ngay cả ở những trái tim khỏe mạnh.

- Tiền sử gia đình có người thân độ 1 (cha mẹ, con cái, anh chị em) từng bị ngừng tim hoặc tai biến mạch não cũng rất vô cùng quan trọng. Vậy nên nếu ai có yếu tố liên quan này, cần tìm đến bác sỹ chuyên khoa tim mạch.

Với tai biến mạch não, vỡ động mạch chủ, những yếu tố dự phòng hàng đầu bao gồm:

- Kiểm soát huyết áp, tiểu đường, không thuốc lá và hạn chế uống rượu, bia.

- Điều trị tốt bệnh lý tim như rung nhĩ, suy tim, bệnh mạch vành và chủ động khảo sát mạch máu não.

- Hạn chế lạm dụng thuốc ngừa thai, thuốc điều chỉnh hoc môn sinh dục, thuốc giảm đau không kê đơn (Naproxen, Ibuprofen…), tránh lối ăn nhiều dầu mỡ chiên rán và những thức ăn nhanh.

- Người chơi thể thao hoặc trong cuộc sống hằng ngày thỉnh thoảng có đau ngực trái, tức ngực, hồi hộp đánh trống ngực, xỉu… và tất cả người trên 65 tuổi nên chủ động đi khám tim mạch hàng năm.

- Thể thao đều đặn cũng là 1 yếu tố vô cùng quan trọng, giúp trái tim và thành mạch thêm dẻo dai, đàn hồi, đồng thời làm giảm lượng mỡ máu, mảng cholesterol thừa bám trong thành mạch.

- Cần lưu ý với những người đã từng có tiền sử chấn thương ngực - bụng, nhiễm trùng, phẫu thuật tim, lịch sử gia đình và di truyền… vì đây là những đối tượng có nguy cơ cao bị phồng lóc và vỡ động mạch chủ.

Với thuyên tắc mạch phổi, những lưu ý dự phòng chính bao gồm:

- Phẫu thuật. Các phẫu thuật vùng bụng, xương chậu, thay khớp gối, khớp háng và gãy xương lớn như xương đùi… luôn có nguy cơ cao của thuyên tắc mạch phổi, đột tử. Người thầy thuốc cần thực hành dự phòng huyết khối trong phác đồ điều trị.

- Lưu ý với bệnh nhân ung thư. Một số bệnh ung thư có tác dụng làm quánh máu làm tăng nguy cơ hình thành máu cục lang thang trong lòng mạch. Điều này đặc biệt đúng đối với ung thư vùng chậu - bụng ở giai đoạn u tiến triển.

- Lưu ý với phụ nữ mang thai và sinh con: có nguy cơ thuyên tắc phổi cao hơn cả trong và ngay sau khi sinh con, đặc biệt đối với những người sinh mổ.

- Lưu ý với bệnh nhân nằm lâu sau mổ gãy xương, sau chấn thương cột sống liệt tay chân… Những người này luôn có nguy cơ cao tắc mạch phổi.

- Thuốc tránh thai, liệu pháp hormone, hút thuốc lá, người trên 70 tuổi, béo phì hoặc lịch sử tắc mạch phổi… cũng có nguy cơ cao bị tắc mạch phổi hơn những người khác.

Khi một bệnh nhân vào viện để điều trị bệnh, đặc biệt là để mổ xẻ, phẫu thuật viên cùng với bác sỹ gây mê sẽ khám xét cẩn thận, cho đi làm các xét nghiệm tối đa để vừa chẩn đoán bệnh chính phải mổ, vừa để phát hiện và xử lý các bệnh lý kèm theo như dị ứng thuốc, cao huyết áp, bệnh mạch vành, suy thận, tiểu đường, rối loạn nhịp tim… Có như vậy, chúng ta mới có thể hạn chế tối đa những rủi ro của phẫu thuật. 

Về phía nhân viên y tế, ngoài việc khám xét bệnh nhân cẩn thận, thực hành điều trị đúng phác đồ và chuyên môn thì việc gặp gỡ gia đình và bệnh nhân trước mổ để giải thích tình trạng bệnh, các nguy cơ của điều trị và phẫu thuật, những rủi ro có thể xảy đến với bệnh nhân (cả khách quan và chủ quan) là điều cần thiết, để người nhà và bệnh nhân có sự chuẩn bị tâm thế tốt nhất cho những trường hợp điều trị thành công hay thất bại. 

Đối với bệnh nhân và gười nhà cũng cần thấu hiểu một vấn đề rất quan trọng trong thực hành y khoa, đó là dù nhân viên y tế có chuyên môn cũng như thực hành mổ xẻ cẩn thận đến đâu, thì những tai biến, biến chứng vẫn luôn có thể xảy đến, trong đó có những ca tử vong rất đột ngột đến từ những nguyên nhân nêu trên. Như một phẫu thuật viên nổi tiếng người Mỹ từng nói “Nếu một phẫu thuật viên tuyên bố phẫu thuật không có tai biến, biến chứng thì phẫu thuật viên đó một là nói dối hoặc anh ta chưa bao giờ đi mổ”.
 

Đánh giá

X
(Di chuột vào ngôi sao để chọn điểm)